Danh mục

Chính sách về chăm sóc sức khỏe bà mẹ - trẻ em kế hoạch hóa gia đình tại một số nước thuộc khu vực biển đảo trên thế giới

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 568.69 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Phí tải xuống: 3,000 VND Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Chất lượng dân số luôn được ưu tiên hàng đầu trong các mục tiêu phát triển của các quốc gia có biển đảo. Vì vậy, Chính phủ các quốc gia thuộc khu vực biển đảo trên thế giới đều có những chính sách về nâng cao chất lượng dân số, chăm sóc sức khỏe nhân dân nói chung và bà mẹ - trẻ em nói riêng. Bài viết này giới thiệu chính sách về chăm sóc sức khỏe bà mẹ - trẻ em, kế hoạch hóa gia đình tại một số nước thuộc khu vực biển đảo trên thế giới.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Chính sách về chăm sóc sức khỏe bà mẹ - trẻ em kế hoạch hóa gia đình tại một số nước thuộc khu vực biển đảo trên thế giớiNHÌN RA THẾ GIỚI CHÍNH SÁCH VỀ CHĂM SÓC SỨC KHỎEBÀ MẸ - TRẺ EM/KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH TẠI MỘT SỐ NƯỚC THUỘC KHU VỰC BIỂN ĐẢO TRÊN THẾ GIỚI ThS. Vũ Thị Minh Hạnh21, ThS. Nguyễn Văn Hùng22 &CS Chất lượng dân số luôn được ưu tiên hàng đầu trong các mục tiêu phát triển của các quốc gia có biểnđảo. Vì vậy, Chính phủ các quốc gia thuộc khu vực biển đảo trên thế giới đều có những chính sách vềnâng cao chất lượng dân số, chăm sóc sức khỏe nhân dân nói chung và bà mẹ - trẻ em nói riêng. Bài báo này giới thiệu chính sách về chăm sóc sức khỏe bà mẹ - trẻ em, kế hoạch hóa gia đình tại mộtsố nước thuộc khu vực biển đảo trên thế giới. Từ khóa: chính sách, chăm sóc sức khỏe bà mẹ - trẻ em, kế hoạch hóa gia đình, biển đảo, thế giới1. Tại Philippines: thống y tế so với nhu cầu của cư dân theo vị trí địa lý và sự chênh lệch về mức sống giữa các vùng, Ngay từ những năm 1971, với nỗ lực nhằm miền trong cả nước. Ngoài ra, có chênh lệch rấtgiảm thiểu tỷ suất sinh Chính phủ Philippines đã lớn trong việc sử dụng các dịch vụ y tế giữa ngườiban hành chính sách dân số, chính sách này đã giàu và người nghèo (94% phụ nữ trong nhómkhẳng định việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình giàu nhất khi sinh có sự hỗ trợ của nhân viên y tế,là một phần của chiến lược phát triển quốc gia [1]. so với 25% ở những người nghèo nhất; 84% phụTuy nhiên, theo đánh giá của Herrin Alejandro. nữ trong nhóm giàu nhất sinh con tại cơ sở y tế,Orbeta Jr, Aniceto. Acejo. Iris. Cuenca, Janet. del so với 13% ở những người nghèo nhất).Prado, Fatima, chính sách dân số của Philippinesdường như vẫn không đạt được hiệu quả. Các tác Trong năm 2006, với sự hỗ trợ của Ngân hànggiả trên cho rằng, nguyên nhân của việc thực hiện Thế giới, Bộ Y tế Philippines đã chuyển trọngchính sách dân số không hiệu quả đó là do việc tâm chương trình chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻđưa ra các chế tài cũng như sự hỗ trợ tài chính em từ chăm sóc “muộn” (chăm sóc sau sinh) sangtrong thực hiện chính sách không đầy đủ. Ngoài “chăm sóc sớm” (chăm sóc từ lúc mang thai) nhưra, hơn 80% người Philippines theo đạo công kiểm tra thai kỳ, điều trị cho các trường hợp cógiáo nên đây cũng là một trở ngại lớn trong việc nguy cơ nhằm hạn chế và giảm thiểu số phụ nữthực hiện chính sách dân số của đất nước [7]. Bên bị các biến chứng sản khoa. Thông qua một loạtcạnh đó, chương trình chăm sóc sức khỏe bà mẹ, các chương trình can thiệp gồm: nâng cao tráchtrẻ em của Chính phủ Philippines cũng đang đối nhiệm của các cơ quan giám sát; đầu tư cơ sởmặt với những thách thức trong việc sắp xếp hệ hạ tầng và trang thiết bị y tế thiết yếu; phát triển21 Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách Y tế22 Phó trưởng khoa Dân số và Phát triển 74 Sè 25/2018nguồn nhân lực (phát triển kỹ năng lâm sàng và - Tăng tỷ lệ những người 60 tuổi đến 64 tuổihình thành các đội y tế thôn bản bao gồm: nữ đang làm việc từ 53% hiện nay lên 60%.hộ sinh, một người phụ nữ mang thai; hỗ trợ tài Bên cạnh việc thực hiện chính sách giảm sinh,chính, các chính sách hỗ trợ sử dụng bảo hiểm khuyến sinh, nâng cao chất lượng dân số, chămy tế; cung cấp dịch vụ: tính sẵn có, số lượng và sóc sức khỏe nhân dân luôn được Chính phủchất lượng các dịch vụ y tế thiết yếu [3]. Nhật Bản quan tâm. Vào những năm 1940, tỷ lệ2. Tại Nhật Bản: tử vong trẻ sơ sinh của Nhật Bản là > 100/1.000 trẻ đẻ sống, Chính phủ Nhật Bản xác định tử Nhật Bản bắt đầu thực hiện chính sách dân số vong trẻ sơ sinh bị ảnh hưởng nhiều bởi sức khỏetừ những năm 1950, sau hơn 20 năm triển khai bà mẹ. Do vậy, ngay từ năm 1942, chương trìnhthực hiện, đến những năm 1970 Nhật Bản đã đạt chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em đã được Nhậtmức sinh thay thế (TFR=2,0) và tổng tỷ suất sinh Bản thực hiện và đến năm 1965 Chính phủ Nhậtcủa Nhật Bản tiếp tục suy giảm trong những năm Bản đã ban hành Luật “Chăm sóc sức khỏe bàtiếp theo. Xác định được những hậu quả mà đất mẹ và trẻ em”, kèm theo đó là việc cụ thể hóanước sẽ phải gánh chịu nếu mức sinh tiếp tục suy các chương trình chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻgiảm, ngay từ năm 1989 Chính phủ Nhật Bản em như thành lập Văn phòng Y tế công cộng, cácđã thực hiện chính sách khuyến sinh, nhưng tỷ trung tâm y tế dự phòng, trung tâm vệ sinh môisuất sinh của Nhật vẫn tiếp tục giảm và đạt mức trường và các hoạt động y tế công cộng khác.thấp nhất là 1,26 con/phụ nữ vào năm 2005. Sau Biện pháp chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em đượcnhiều nỗ lực và triển khai nhiều giải pháp đồng xây dựng trên một hệ thống chăm sóc tổng thể từbộ, tổng tỷ suất sinh của Nhật Bản đã có những tuổi vị thành niên đến quá trình mang thai, sinhtiến bộ: năm 2008 đạt 1,37 con/phụ nữ; năm con và chăm sóc sức khỏe toàn diện cho trẻ sơ2010 đạt 1,57 con/phụ nữ, số liệu thống kê cũng sinh nhằm giảm thiểu, tiến tới loại ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: