Chu Trình Nuôi Cá Mú Khép Kín Ở Đài Loan
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 165.69 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Hiện nay Ðài Loan có khả năng sản xuất giống cá mú ở quy mô thương mại lớn, cung cấp giống và trứng cá mú đã thụ tinh để xuất khẩu sang các thị trường khác. Các loài chính được nuôi trong các trại là E. coicoides, E. malabaricus, E. lanceolatus và E. fuscoguttatus.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Chu Trình Nuôi Cá Mú Khép Kín Ở Đài LoanChu Trình Nuôi Cá MúKhép Kín Ở Đài LoanKHCN TS, 6/2004 - D. L - Seafood International T3/04Hiện nay Ðài Loan có khả năng sản xuất giống cá mú ở quy mô thương mạilớn, cung cấp giống và trứng cá mú đã thụ tinh để xuất khẩu sang các thịtrường khác. Các loài chính được nuôi trong các trại là E. coicoides, E.malabaricus, E. lanceolatus và E. fuscoguttatus. Hiện nay, có 15 loài cá múđang được nuôi tại Ðài Loan. Các vấn đề như lượng cung cấp và nhu cầu tiêuthụ thường gây ảnh hưởng đến giá cả. Do vậy, các nhà nghiên cứu nuôi trồngthuỷ sản đang tiến hành thử nghiệm các loài khác nhau để tăng thêm tính cạnhtranh trong thị trường. Gần đây, một số loài mới đang được sử dụng để nuôibiển và cho thử nghiệm sinh sản trong môi trường lồng bè (kín) bao gồm E.Tukula, E. bruneus, E. multinotatus, E. flavocaeruleus, E. cyanoopdus,Plectropomus, laevis, Cromileptes altivelis và Cephalopholis sonnerati.Những loài này thường không có đủ để đáp ứng nhu cầu của thị trường cá rạnsống. Nuôi biển thâm canh hoặc trong môi trường lồng bè (kín) có thể cungcấp nguồn cá mú phù hợp và khi thu hoạch không làm ảnh hưởng tới môitrường san hô nhạy cảm.Trong mấy thập kỷ qua, tại Ðông Nam Á, nhu cầu về cá mú tươi sống đã tăngmột cách đáng kể. Hầu hết nhu cầu về cá mú được đáp ứng từ nguồn đánhbắt. Tuy nhiên, có một số vấn đề cấp thiết liên quan đến nguồn lợi cá mú cầnđược giải quyết nếu như muốn duy trì việc kinh doanh cá mú trong tương lai.Số lượng cá mú rất dễ bị suy giảm bởi việc khai thác quá mức vì vòng đời củaloài này dài và kích cỡ quần thể lại nhỏ. Việc khai thác cá mú quá mức đã xảyra ở nhiều khu vực và việc sử dụng một số dụng cụ khai thác đã huỷ diệt môitrường sống của loài này. Do vậy, một nhu cầu cấp thiết là phải phát triển cácnguồn cá mú khác để giảm áp lực khai thác đối với đàn cá tự nhiên. Giải phápcho những vấn đề này là thiết lập một chu trình nuôi cá mú khép kín (sử dụngcá hương được nuôi trong trại giống) và mở rộng nuôi biển nói chung.Ở Ðài Loan, việc nuôi cá mú đã bắt đầu vào năm 1972. Nguồn giống cả cábột được đánh bắt từ tự nhiên nhưng nguồn này không đủ vì lượng giốngtrong tự nhiên đã bị giảm đi đáng kể. Do vậy, việc nghiên cứu để sản xuấtgiống nhân tạo đã được tiến hành và thành công vào giữa những năm giữathập kỷ 80. Từ đó đến nay, Ðài Loan đã phát triển được một ngành côngnghiệp nuôi cá mú biển theo công nghệ tiên tiến.Với đặc tính tăng trưởng nhanh và lợi nhuận cao, cá mú đã sớm trở thành loàinuôi biển quan trọng nhất ở Ðài Loan. Năm 2001, có hơn 600 trại ương vànuôi tăng trưởng với diện tích sản xuất hơn 700ha. Sự hỗ trợ mạnh mẽ củachính phủ đã cho phép các trại giống và nuôi cá mú phát triển có hiệu quả,các rào cản về xuất nhập khẩu cá bột đã được bãi bỏ nhằm thúc đẩy nền côngnghiệp này. Ở Ðài Loan sản lượng nuôi cá mú cỡ thương phẩm đã tăng từkhoảng 1000 tấn vào những năm đầu của thập kỷ 90 và lên đến 7000 tấn vàonăm 2001. Ðể sản xuất nguồn giống cho nuôi đại trà, đàn cá bố mẹ được kíchthích để sinh sản nhân tạo hoặc được sinh sản tự nhiên với số lượng 20 triệucá bột hằng năm.Các hoạt động nuôi biểnKhó khăn chính gặp phải trong việc phát triển nuôi cá mú là sản xuất giống cáphù hợp. Việc nuôi ấu trùng cá mú thường không chắc chắn vì với số lượngnuôi lớn nhưng tỷ lệ sống sót nhìn chung là thấp. Tuy nhiên, những ngườinông dân nuôi cá mú Ðài Loan đã vượt qua vấn đề này. Những lý do thànhcông của nền công nghiệp nuôi ấu trùng cá mú Ðài Loan bao gồm:Sản xuất số lượng lớn trứng đã được thụ tinh :Có ít nhất có 10 trại nuôi cá mú bố mẹ quy mô lớn ở miền Nam Ðài Loan.Thông thường, họ để cho loài cá này sinh sản tự nhiên trong các ao. Vào mùasinh sản chính, mỗi ngày có tới 300 cá bố mẹ sản xuất trên 20kg trứng (30triệu trứng) trong một ao diện tích 0,2 ha. Mỗi năm các trại nuôi cá bố mẹ cóthể sản xuất ra 20 tỉ trứng cá mú đã được thụ tinh đáp ứng đủ nhu cầu cho hơn1000 trại nuôi cá mú.Hoóc môn được sử dụng để kích thích cá sinh sản sớm hơn vì những congiống này sẽ thu được giá cao hơn những cá giống sản xuất muộn hơn.Tổ chức các trại giống kết hợp, người điều hành trại nuôI có kinh nghiệm vàcó các hệ thống nhỏ chuyên môn hoá cao nằm trong một hệ thống nuôi cá mútiên tiến.Hệ thống nuôi cá mú liên quan đến một loạt các trại nuôI chuyên nghiệp nằmtrong những khu vực sản xuất. Các trại sản xuất trứng thụ tinh, đàn cá bố mẹđược giữ trong các ao ngoài trời và được kích thích để sinh sản nhân tạo hoặccho sinh sản tự nhiên. Trứng được thụ tinh sẽ được chuyển tới trại nuôi cábột, ở đó trứng được phát triển đến khi có đuôi dài 3cm. Người ta sử dụng cảhai phương pháp nuôi ấu trùng là nuôi trong nhà và ngoài trời và sử dụng kỹthuật nước xanh hoặc nước sạch.Sau đó, cá đươc đưa vào một trại nuôi cá giống và khi cá đạt chiều dài đuôi là7 - 9cm, chúng được chuyển đến nuôi trong các ao ngoài trời hoặc các lồnglưới nổi. Cá được nuôi đến khi đạt cỡ thương phẩm là 600 - 700g.Ở đ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Chu Trình Nuôi Cá Mú Khép Kín Ở Đài LoanChu Trình Nuôi Cá MúKhép Kín Ở Đài LoanKHCN TS, 6/2004 - D. L - Seafood International T3/04Hiện nay Ðài Loan có khả năng sản xuất giống cá mú ở quy mô thương mạilớn, cung cấp giống và trứng cá mú đã thụ tinh để xuất khẩu sang các thịtrường khác. Các loài chính được nuôi trong các trại là E. coicoides, E.malabaricus, E. lanceolatus và E. fuscoguttatus. Hiện nay, có 15 loài cá múđang được nuôi tại Ðài Loan. Các vấn đề như lượng cung cấp và nhu cầu tiêuthụ thường gây ảnh hưởng đến giá cả. Do vậy, các nhà nghiên cứu nuôi trồngthuỷ sản đang tiến hành thử nghiệm các loài khác nhau để tăng thêm tính cạnhtranh trong thị trường. Gần đây, một số loài mới đang được sử dụng để nuôibiển và cho thử nghiệm sinh sản trong môi trường lồng bè (kín) bao gồm E.Tukula, E. bruneus, E. multinotatus, E. flavocaeruleus, E. cyanoopdus,Plectropomus, laevis, Cromileptes altivelis và Cephalopholis sonnerati.Những loài này thường không có đủ để đáp ứng nhu cầu của thị trường cá rạnsống. Nuôi biển thâm canh hoặc trong môi trường lồng bè (kín) có thể cungcấp nguồn cá mú phù hợp và khi thu hoạch không làm ảnh hưởng tới môitrường san hô nhạy cảm.Trong mấy thập kỷ qua, tại Ðông Nam Á, nhu cầu về cá mú tươi sống đã tăngmột cách đáng kể. Hầu hết nhu cầu về cá mú được đáp ứng từ nguồn đánhbắt. Tuy nhiên, có một số vấn đề cấp thiết liên quan đến nguồn lợi cá mú cầnđược giải quyết nếu như muốn duy trì việc kinh doanh cá mú trong tương lai.Số lượng cá mú rất dễ bị suy giảm bởi việc khai thác quá mức vì vòng đời củaloài này dài và kích cỡ quần thể lại nhỏ. Việc khai thác cá mú quá mức đã xảyra ở nhiều khu vực và việc sử dụng một số dụng cụ khai thác đã huỷ diệt môitrường sống của loài này. Do vậy, một nhu cầu cấp thiết là phải phát triển cácnguồn cá mú khác để giảm áp lực khai thác đối với đàn cá tự nhiên. Giải phápcho những vấn đề này là thiết lập một chu trình nuôi cá mú khép kín (sử dụngcá hương được nuôi trong trại giống) và mở rộng nuôi biển nói chung.Ở Ðài Loan, việc nuôi cá mú đã bắt đầu vào năm 1972. Nguồn giống cả cábột được đánh bắt từ tự nhiên nhưng nguồn này không đủ vì lượng giốngtrong tự nhiên đã bị giảm đi đáng kể. Do vậy, việc nghiên cứu để sản xuấtgiống nhân tạo đã được tiến hành và thành công vào giữa những năm giữathập kỷ 80. Từ đó đến nay, Ðài Loan đã phát triển được một ngành côngnghiệp nuôi cá mú biển theo công nghệ tiên tiến.Với đặc tính tăng trưởng nhanh và lợi nhuận cao, cá mú đã sớm trở thành loàinuôi biển quan trọng nhất ở Ðài Loan. Năm 2001, có hơn 600 trại ương vànuôi tăng trưởng với diện tích sản xuất hơn 700ha. Sự hỗ trợ mạnh mẽ củachính phủ đã cho phép các trại giống và nuôi cá mú phát triển có hiệu quả,các rào cản về xuất nhập khẩu cá bột đã được bãi bỏ nhằm thúc đẩy nền côngnghiệp này. Ở Ðài Loan sản lượng nuôi cá mú cỡ thương phẩm đã tăng từkhoảng 1000 tấn vào những năm đầu của thập kỷ 90 và lên đến 7000 tấn vàonăm 2001. Ðể sản xuất nguồn giống cho nuôi đại trà, đàn cá bố mẹ được kíchthích để sinh sản nhân tạo hoặc được sinh sản tự nhiên với số lượng 20 triệucá bột hằng năm.Các hoạt động nuôi biểnKhó khăn chính gặp phải trong việc phát triển nuôi cá mú là sản xuất giống cáphù hợp. Việc nuôi ấu trùng cá mú thường không chắc chắn vì với số lượngnuôi lớn nhưng tỷ lệ sống sót nhìn chung là thấp. Tuy nhiên, những ngườinông dân nuôi cá mú Ðài Loan đã vượt qua vấn đề này. Những lý do thànhcông của nền công nghiệp nuôi ấu trùng cá mú Ðài Loan bao gồm:Sản xuất số lượng lớn trứng đã được thụ tinh :Có ít nhất có 10 trại nuôi cá mú bố mẹ quy mô lớn ở miền Nam Ðài Loan.Thông thường, họ để cho loài cá này sinh sản tự nhiên trong các ao. Vào mùasinh sản chính, mỗi ngày có tới 300 cá bố mẹ sản xuất trên 20kg trứng (30triệu trứng) trong một ao diện tích 0,2 ha. Mỗi năm các trại nuôi cá bố mẹ cóthể sản xuất ra 20 tỉ trứng cá mú đã được thụ tinh đáp ứng đủ nhu cầu cho hơn1000 trại nuôi cá mú.Hoóc môn được sử dụng để kích thích cá sinh sản sớm hơn vì những congiống này sẽ thu được giá cao hơn những cá giống sản xuất muộn hơn.Tổ chức các trại giống kết hợp, người điều hành trại nuôI có kinh nghiệm vàcó các hệ thống nhỏ chuyên môn hoá cao nằm trong một hệ thống nuôi cá mútiên tiến.Hệ thống nuôi cá mú liên quan đến một loạt các trại nuôI chuyên nghiệp nằmtrong những khu vực sản xuất. Các trại sản xuất trứng thụ tinh, đàn cá bố mẹđược giữ trong các ao ngoài trời và được kích thích để sinh sản nhân tạo hoặccho sinh sản tự nhiên. Trứng được thụ tinh sẽ được chuyển tới trại nuôi cábột, ở đó trứng được phát triển đến khi có đuôi dài 3cm. Người ta sử dụng cảhai phương pháp nuôi ấu trùng là nuôi trong nhà và ngoài trời và sử dụng kỹthuật nước xanh hoặc nước sạch.Sau đó, cá đươc đưa vào một trại nuôi cá giống và khi cá đạt chiều dài đuôi là7 - 9cm, chúng được chuyển đến nuôi trong các ao ngoài trời hoặc các lồnglưới nổi. Cá được nuôi đến khi đạt cỡ thương phẩm là 600 - 700g.Ở đ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
chê phẩm sinh học thức ăn gia súc kỹ thuật chăn nuôi phương pháp chăn nuôi kỹ thuật trồng trọt nuôi cá mú bài học nuôi cá múGợi ý tài liệu liên quan:
-
Thông tư số 08/2019/TT-BNNPTNT
7 trang 244 0 0 -
Nuôi cá dĩa trong hồ thủy sinh
3 trang 221 0 0 -
Một số đặc điểm ngoại hình và sinh lý sinh dục của chuột lang nuôi làm động vật thí nghiệm
5 trang 138 0 0 -
5 trang 125 0 0
-
91 trang 108 0 0
-
Mô hình nuôi tôm sinh thái ở đồng bằng sông Cửu Long
7 trang 100 0 0 -
114 trang 99 0 0
-
Hướng dẫn kỹ thuật trồng lát hoa
20 trang 98 0 0 -
Giáo trình chăn nuôi gia cầm - Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên
230 trang 71 1 0 -
NGHỀ CHĂN NUÔI NGAN AN TOÀN SINH HỌC
28 trang 67 0 0