Vùng ven bờ luôn là nơi được con người quan tâm do nguồn tài nguyên của nó. Đây lànơi có vùng đồng bằng màu mỡ và tài nguyên biển phong phú, vùng ven bờ cũng là nơi dễdàng cho sự tiếp cận của thị trường quốc tế. Nó tạo ra không gian sống, các tài nguyên sinhvật và phi sinh vật cho các hoạt động của con người và có chức năng điều hoà đối với môitrường tự nhiên cũng như môi trường nhân tạo....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Chương 1. KHÁI NIỆM VÙNG VEN BỜ VÀ QUẢN LÝ TỔNG HỢP VÙNG VEN BỜ 1 Chương 1. KHÁI NIỆM VÙNG VEN BỜ VÀ QUẢN LÝ TỔNG HỢP VÙNG VEN BỜ Vùng ven bờ luôn là nơi được con người quan tâm do nguồn tài nguyên của nó. Đây lànơi có vùng đồng bằng màu mỡ và tài nguyên biển phong phú, vùng ven bờ cũng là nơi dễdàng cho sự tiếp cận của thị trường quốc tế. Nó tạo ra không gian sống, các tài nguyên sinhvật và phi sinh vật cho các hoạt động của con người và có chức năng điều hoà đối với môitrường tự nhiên cũng như môi trường nhân tạo. Vùng ven bờ là trọng tâm của nhiều ngành kinh tế quốc gia, là nơi mà phần lớn các hoạtđộng về kinh tế, xã hội diễn ra và cũng là nơi mà tác động của các hoạt động này nhiều nhất.Đối với những nước có vùng bờ, hơn một nữa dân số sống tại đây và tầm quan trọng của vùngven bờ còn gia tăng trong tương lai do sự gia tăng không ngừng của việc di dân từ các vùngsâu trong lãnh thổ tới đây. Do vậy, không ngạc nhiên khi có sự xung đột sâu sắc giữa nhu cầutiêu dùng hiện nay đối với tài nguyên và việc đảm bảo cho việc tiêu thụ tài nguyên đó trongtương lai. Trong một số quốc gia, sự xung đột đó đã đạt đến mức nguy cấp do phần lớn vùngven bờ đã bị ô nhiễm do các nguồn khác nhau. Rất nhiều hoạt động phát triển đô thị, côngnghiệp và nông nghiệp trên vùng ven biển là nằm trong vùng đất ngập nước ven biển có năngsuất cao và các dự án phát triển đang làm biến đổi hệ sinh thái ven biển trên một qui mô rấtlớn. Nước thải từ hầu hết các đô thị và khu công nghiệp trên thế giới đổ trực tiếp vào biểnhoặc gián tiếp qua các hệ thống sông mà không được xử lý hoặc xử lý rất ít. Nghề cá bị sa sút,đất ngập nước bị khô, các rạn san hô bị phá hủy, các bãi biển bị xuống cấp,... Để các vùng ven bờ được duy trì và bảo vệ, cần phải có hành động hiệu quả và kịp thời.Để giải quyết cho yêu cầu này, một hệ thống quản lý đã được hình thành: Quản lý tổng hợpvùng ven bờ: (ICZM, Integrated Coastal Zone Management). Quản lý tổng hợp vùng ven bờ (QLTHVB) có thể cho phép giải quyết các vấn đề nảysinh trong phát triển như: • Tăng dân số ở vùng ven biển, đô thị hoá, cạnh tranh đất đai, nguồn nước và các vấn đề liên quan đến ô nhiễm. • Sự dâng cao của mức nước biển làm cho nhiều quốc gia ven biển dễ bị ảnh hưởng của lụt lội và đe dọa cuộc sống và các hoạt động kinh tế. • Quản lý tài nguyên kém làm tăng phạm vi ảnh hưởng và tính khốc liệt của các tai biến thiên nhiên như bão lụt, xói lở bờ biển,... đối với cuộc sống và dân cư. • Tài nguyên bị khai thác quá mức và sử dụng không hợp lý, ví dụ như vấn đề khai thác cạn kiệt các loài thuỷ hải sản, khai thác san hô làm vật liệu xây dựng, phá rừng ngập mặn để nuôi tôm. I. Khái niệm vùng ven bờ Hầu hết các hướng dẫn QLTHVB được xuất bản đều đồng ý rằng vùng ven bờ là khuvực có giao diện khá hẹp giữa biển và đất liền. Đó là nơi các quá trình sinh thái phụ thuộc vàosự tác động lẫn nhau giữa đất liền và biển, các tác động này diễn ra khá phức tạp và nhạycảm. Vùng ven bờ thường được hiểu như là nơi tương tác giữa đất và biển, bao gồm các môitrường ven bờ cũng như vùng nước kế cận. Các thành phần của nó bao gồm các vùng châuthổ, vùng đồng bằng ven biển, các vùng đất ngập nước, các bãi biển và cồn cát, các rạn sanhô, các vùng rừng ngập mặn, đầm phá, và các đặc trưng ven bờ khác. Khái niệm vùng ven bờthường được xác định một cách tùy tiện, hơi khác nhau giữa các quốc gia và thường dựa vào 2giới hạn pháp lý và ranh giới hành chánh. Ngoài ra, còn có những sai khác về địa văn(physiography), sinh thái và kinh tế giữa các vùng khác nhau, do đó không có một định nghĩađược chấp nhận rộng rãi về vùng ven bờ. Thay vào đó, có nhiều định nghĩa bổ sung phục vụcho những mục đích quản lý khác nhau, trong đó vấn đề ranh giới cần được xem xét. Ví dụ ởmột số nước Châu Âu, vùng ven bờ mở rộng ra tới vùng lãnh hải, một số nước khác thì lấyđường đẳng sâu làm giới hạn. Còn về ranh giới đất liền thì cũng rất mơ hồ do tác động củabiển vào khí hậu có thể vào đến vùng nội địa bên trong cũng như vùng đồng bằng ngập lụtrộng lớn. Vấn đề ranh giới vùng ven bờ có thể được xác định một cách thực tế bao gồm các khuvực và các hoạt động liên quan đến vấn đề quản lý mà chương trình sẽ nhắm vào. Trong nhiềutrường hợp, ranh giới vùng đất và biển được chọn thường có một khoảng cách nhất định vớimột mốc tự nhiên chẳng hạn như là mức nước thấp trung bình (MLWM, Mean Low WaterMark) hay mức nước cao trung bình (MHWM, Mean High Water Mark). Bảng 1. Một số ví dụ về ranh giới vùng ven bờ Nước, bang Ranh giới đất liền Ranh giới biển Rhode Island 200 bộ kể từ bờ biển Vùng lãnh hải (3 dặm) Hawaii Tất cả đất liền trừ vùng các khu rừng Vùng nước của Bang bảo vệ Brunei Tất cả vùng đất liền và nước cách Từ MHWM đến 200 m nước sâu MHWM 1 km Singapore Toàn bộ đất liền Vùng lãnh hải và các đảo xa bờ Sri Lanka 300 m từ MHWM 2 km từ MLWM Malaysia Ranh giới huyện 20 km từ bờ Theo IUCN (1986), vùng ven bờ được định nghĩa như sau: là vùng ở đó đất và biểntương tác với nhau, trong đó ranh giới về đất liền được xác định bởi giới hạn các ảnh hưởngcủa biển đến đất và ranh giới về biển được xác định bởi giới hạn các ảnh hưởng của đất vànước ngọt đến biển. Theo World Bank, vùng ven bờ được hiểu là ... dựa vào những mục tiêu thực tiễn, màvùng ven bờ là một vùng đặc biệt có những thuộc tính đặc biệt, mà ranh giới được xác định,thường dựa vào những vấn đề được giải quyết Ngoài ra còn có một số thuật n ...