Câu 10 : Trình bày sự cần thiết khách quan của QLNN đối với nền kinh tế. Bằng lý thuyết và thực tiễn chứng minh vai trò QLKT của nhà nước càng quan trọng trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 1.nhà nước. ta có thể thấy nhà nước xuất hiện khi giai cấp và tư hưu về tư liệu sản xuất. nhà nước một mặt( là một thiết chế quyền lực chính trị) là cơ quan thống trị giai cấp...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ (Phần 5)
CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
KINH TẾ (Phần 5)
Câu 10 : Trình bày sự cần thiết khách quan của QLNN đối với nền kinh tế.
Bằng lý thuyết và thực tiễn chứng minh vai trò QLKT của nhà nước càng
quan trọng trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
sang nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
1.nhà nước.
ta có thể thấy nhà nước xuất hiện khi giai cấp và tư hưu về tư liệu sản xuất.
nhà nước một mặt( là một thiết chế quyền lực chính trị) là cơ quan thống trị
giai cấp của một(một nhóm) giai cấp này đối với một (hoặc toàn bộ giạ cấp
khác trong xã hội ); mặt khác nó còn là quyền lực công đại diện cho lợi ích
chung của cộng đồng xã hội nhằm duy trì và phát triển xã hội trước lịch sử
và các nhà nước khác.
Nhà nước nào cũng có hai thuộc tính cơ bản: thuộc tính giai cấp và thuộc
tính xã hội. nhà nước tồn tại đóng vai trò là chủ thể lớn nhất, quyết định nhất
trong việc quản lý xh và là nhân tố cơ bản giúp cho xã hội tồn tại, hoạt đông,
phát triển hay suy thoái. Nhà nước có hai chức năng cơ bản là: đối nội và đối
ngoại.
trong chức năng đối nội thì có chức năng tổ chức và quản lý kinh tế đó là
chức năng rất quan trọng, chức năng này nhằm vào các nhiện vụ:
- tạo lập, bảo đảm các tiền đề để ổn định để các chủ thể yên tâm đầu tư vào
sản xuất kinh doanh
- giải phóng sức sx, khai thác tiềm năng của đất nước, đảm bảo sự bình
đẳng, khả năng phát triển có hiệu quả của các thành phần kinh tế
- củng cố, phát triển các hình thức sở hữu trên cơ sở giữ vững vai trò chủ
đạo của sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể
- tạo tiền đề và đảm bảo các đk để các thành phần kinh tế tham gia có hiệu
quả vào hợp tác kinh tế quốc tế.
1. sự cần thiết khách quan.
- xuất phát từ chức năng của nhà nước, ta thấy rằng nhà nước có rất nhiều
chức năng và nhà nước thực hiện tất cả các chức năng ấy nhằm cho đất nước
phát triển và một chức năng đóng vai trò chủ đạo là chức năng quản lý nền
kinh tế, để thực hiện tốt các chức năng này thì nhà nước đã phải đưa ra
khung pháp lý,các chính sách tổng thể và cụ thể …..
- sự phát triển của sx hàng hóa và sự ra đời của KTTT đòi hỏi phải nâng cao
hiệu lực quản lý xã hội của nhà nước trên cả 2 phương diện có quan hệ gắn
bó với nhau đó là: quản lý hành chính và quản lý kinh tế.
- nền KTTT xuất hiện như một yêu cầu khách quan, cơ chế thị trường là một
cơ chế kích thích và điều tiết kinh tế có hiệu quả nhưng cơ chế KTTT cũng
không phải là vạn năng, hoàn hảo mà nó còn những khuyết tật cố hữu của
nó, chính vì vậy để đảm bảo là cơ chế KTTT đi đúng hướng thì cần phải có
sự quản lý đúng đắn và chỉ có nhà nước mới có thể đứng ra quản lý được.
- vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hường xã hội chủ
nghĩa: nền kinh tế nước ta chịu sự điều tiết, cần sự quản lý của nhà nước có
các lý do sau:
+ nhà nước phải khắc phục những hạn chế của việc điều tiết của thị trường
bảo đảm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế-xh đã đề ra. Thị trương không
phải là nơi có thể đạt được sự hài hòa trong việc phân phối thu nhập xã hội,
trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống…nền kinh tế thị trương cũng
không thể tự khắc phục được những hạn chế của mình, điều đó nó không
phù hợp và nó sẽ cản trở mục tiêu kt-xh đã đặt ra.cho nên trong quá trình
vận hành kinh tế cần có sự quản lý của nhà nước để bù đắp những khuyết
điểm của nền kinh tế và điều chỉnh nền kinh tế đi đúng với định hướng, mục
tiêu đã đề ra.
+ nhà nước bằng quyền lực, chính sách và sức mạnh kinh tế của mình, nhà
nước giải quyết những mâu thuẫn lợi ích kinh tế phổ biến, thường xuyên và
cơ bản trong nền kinh tế quốc dân. khi vận động nền kinh tế có một số mâu
thuẫn sau:
Thứ nhất: mâu thuẫn giữa các doanh nhân với nhau trên thương trường. mâu
thuẫn này xuất hiện trong các chao đổi hàng hóa, các doanh nhân ví “thương
trường như chiến trường”.việc mâu thuấn này thể hiện ở việc ăn cắp mẫu
mã, kiểu dáng sản phẩm, mua tranh bán cướp, bán phá giá, sự tranh giành
quyền quản lý công ty của các cổ đông…
Thứ hai: mâu thuấn giữa chủ và thợ trong các doanh nghiệp. điều này xảy ra
là điều tất yếu trong nền tế thị trường vì các doanh nhân thì muốn sản xuất ra
nhiều sản phẩm với giá thành rẻ nhất còn người công nhân thì muốn lương
cao, làm it… chính vì vậy mà mâu thuẫn này ngày càng nhiều và sâu sắc
hơn, mâu thuẫn này bùng nổ với các cuộc đình công, đập phá máy móc…
Thứ 3: mâu thuẫn giữa giới sx kinh doanh với toàn thể cộng đồng. mâu
thuẫn này xảy ra khi các nhà xs sử dụng tài nguyên và môi trường không
hợp lý và không tính đến lợi ích của nhân dân, khi cung ứng những dịch vụ,
hàng hóa kém chất lượng làm ảnh hưởng đến sức khỏe của nhân dân.
Thứ 4: một số các mâu thuẫn khác như mâu huẫn giữa cá nhân, công dân với
nhà nước hay giữa các địa phương với nhau…những mâu thuẫn này xảy ra
thường xuyên và liên tục, những mâu thuẫn này ảnh hưởng trực tiếp đến sự
phát triển, ổn định của nền kt-xh, ảnh hưởng đến sự tồn vong của đất nước.
chỉ có nhà nước mới có thể giải quyết được những mâu thuẫn này, và điều
hòa được nền kinh tế.
+ tính khó khăn phức tạp của sự nghiệp kinh tế. hoạt động kt cần nhiều điều
kiện chủ quan, đó chính là phải có ý trí làm giàu tuy nhiên muốn làm giàu
còn phải phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó có sự tin tưởng vào chế độ
kinh tế, chính trị, vào tính đúng đắn của sự lựa chọn đầu tư, lựa chọn giải
pháp … những điều này phụ thuộc rất lớn vào nhà nước và chế độ xh.
Ta phải có tri thức làm giàu, người làm kinh doanh cần phải có 2 nhóm tri
thức cơ bản đó là: tri thức về sản xuất kinh doanh và thông tin toàn diện về
trong và ngoài nước có liên quan đến việc làm kinh tế. tri thức về sản xuất
kinh doanh bao gồm những kiến thức khoa học kỹ thuật, công nghệ sản xuất
có thể học từ các trường lớp, sách vở và thực tiễn, còn nhóm thứ 2 bao gồm
nhiều thông tin như kinh tế kỹ thuật, chính trị, quân sự trong và ngoài nước,
giá cả, quy hoạch… chỉ ccos nhà nước mới có. Do đó nếu khong có nhà
nước thì chắc chắn các nhà doanh nghiệp ...