Danh mục

Chuyên đề 4: Ba đoạn trích Truyện Kiều

Số trang: 13      Loại file: pdf      Dung lượng: 316.12 KB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
Jamona

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (13 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nội dung chuyên đề 4 trình bày về cảm nhận vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, cảm nhận bức tranh cảnh ngày xuân trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”, phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích".


Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Chuyên đề 4: Ba đoạn trích Truyện KiềuCHUYÊN ĐỀ 4: Ba đoạn trích “Truyện Kiều” Theo admin Học văn lớp 9 – CH - https://www.facebook.com/hocvanlop9 A. Kiến thức trọng tâm: 1. Cảm nhận vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”. 2. Cảm nhận bức tranh cảnh ngày xuân trong đoạn trích “ Cảnh ngày xuân”. 3. Phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”. B. Phân tích: * Khái quát về tác giả, tác phẩm: - Nguyễn Du là thiên tài văn học, là nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. - “Truyện Kiều” của ông được coi là kiệt tác ngàn đời trong kho tàng văn chương dân tộc. 1. Vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” - Dưới cái nhìn trân trọng và mến thương, đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” đã gợi tả được vẻ đẹp đặc sắc của hai cô con gái nhà họ Vượng.Vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều cũng như vẻ đẹp của từng người đã được Nguyễn Du khắc họa một cách rõ nét bằng bú t pháp ước lệ tượng trưng. a. Giới thiệu khái quát nhân vật: - Mở đầu đoạn thơ, Nguyễn Du giới thiệu chung về hai chị em trong gia đình, lời giới thiệu cổ điển, trang trọng rằng họ là “tố nga”, đẹp và trong sáng: Đầu lòng hai ả tố nga Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân. - Tiếp đến, tác giả giới thiệu một cách khái quát nét đẹp chung và riêng của hai chị em: Mai cốt cách tuyết tinh thần Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười. + Với bút pháp ước lệ tượng trưng, tác giả đã gợi tả vẻ đẹp duyên dáng, thanh tao, trong trắng của người thiếu nữ ở hai chị em Thúy Kiều: “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”. Vóc dáng mảnh mai, tao nhã như mai; tâm hồn trắng trong như tuyết. Đó là vẻ đẹp hài hòa đến độ hoàn mĩ cả hình thức lẫn tâm hồn, cả dung nhan và đức hạnh. + Hai chị em đều tuyệt đẹp, không tì vết “mười phân vẹn mười”, song mỗi người lại mang nét đẹp riêng khác nhau “mỗi người một vẻ”. -> Bốn câu thơ đầu là bức tranh nền để từ đó tác giả dẫn người đọc lần lượt chiêm ngưỡng sắc đẹp của từng người. b. Vẻ đẹp của Thúy Vân: - Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân, tác giả viết: Vân xem trang trọng khác vời Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang Hoa cười ngọc thốt đoan trang, Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da. + Chỉ hai chữ “trang trọng” đã gợi tả ở Vân một vẻ đẹp cao sang, quí phái. Vẻ đẹp ấy được so sánh với cái đẹp chuẩn mực của thiên nhiên như “trăng”,”hoa”,”mây”,”tuyết”,”ngọc”. Dưới ngòi bút cuả thi nhân, chân dung Thúy Vân hiện ra toàn vẹn từ khuôn mặt, nét ngài, làn da, mái tóc đến nụ cười giọng nói. Khuôn mặt đầy đặn, tươi sáng như trăng đêm rằm, lông mày sắc nét như mày ngài, miệng cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngọc ngà là những lời đoan trang, ý tứ. Mái tóc của nàng đen mượt hơn mây, da trắng mịn màng hơn tuyết. Vân đẹp hơn những gì mỹ lệ của thiên nhiên – một vẻ đẹp tạo sự hòa hợp, êm đềm với xung quanh. Từ thông điệp nghệ thuật này, ắt hẳn Vân sẽ có cuộc đời bình yên, không sóng gió. c. Vẻ đẹp của Thúy Kiều: - Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, tác giả đã khái quát: Kiều càng sắc sảo mặn mà So bề tài sắc lại là phần hơn. Như vậy, Nguyễn Du đã miêu tả Thúy Vân trước để làm nổi bật Thúy Kiều theo thủ pháp nghệ thuật đòn bẩy. Tả kĩ, tả đẹp để Vân trở thành tuyệt thế giai nhân, để rồi khẳng định Kiều còn hơn hẳn. Từ “càng” đứng trước hai từ láy liên tiếp “sắc sảo”,”mặn mà” làm nổi bật vẻ đẹp của Kiều: sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn. - Vẫn là những hình tượng nghệ thuật ước lệ được nhà thơ sử dụng để gợi tả nhan sắc nàng Kiều: Làn thu thủy, nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh Một hai nghiêng nước, nghiêng thành, Sắc đành đòi một tài đành họa hai Song thi nhân không thiên về cụ thể như tả Thúy Vân mà ở đây, ông chỉ đặc tả đôi mắt theo lối “điểm nhãn”– vẽ hồn của chân dung. “Làn thu thủy nét xuân sơn” – những hình ảnh ẩn dụ gợi đôi mắt trong sâu thẳm như làn nước mùa thu; đôi lông mày thanh tú như dáng núi mùa xuân. Cô Kiều hiện lên với vẻ đẹp khiến hoa phải ghen, liễu phải hơn, nước phải nghiêng, thành phải đổ. Thi nhân không tả trực tiếp vẻ đẹp mà tả sự đố kị, ghen ghét với vẻ đẹp ấy,tả sự ngưỡng mộ, mê say trước vẻ đẹp ấy. “Nghiêng nước nghiêng thành” là cách nói sáng tạo điển cố để cực tả giai nhân. Rõ ràng, cái đẹp của Kiều có chiều sâu, có sức quyến rũ làm mê mẩn lòng người. - Tạo hóa không chỉ ban cho nàng vẻ đẹp tuyệt vời mà còn phú cho nàng trí tuệ thông minh tuyệt đối: Thông minh vốn sẵn tính trời Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm Cung thương lầu bậcngũ âm Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương. Khúc nhà tay lựa nên chương. Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân. Tài năng của Kiều đạt tới mức lý tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến, đủ cả cầm – kì – thi – họa. Chỉ riêng tài thơ của nàng cũng đã làm nhiều người khâm phục. Chẳng hạn, lúc đi tảo mộ “Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần”, hay khi buộc phải cầm bút đề thơ trước cửa quan liền được khen ngợi “Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân”. Đặc biệt, tài đàn của nàng vượt trội hơn cả “ làu bậc ngũ âm”. Nàng đã soạn riêng một khúc Bạc mệnh mà ai nghe cũng não lòng. Đây chính là biểu hiện của một con người có trái tim đa sầu, đa cảm. => Tả sắc, tài của Thúy Kiều là Nguyễn Du muốn ngợi ca cái tâm đặc biệt của nàng. Vẻ đẹp của Kiề u là sự kết hợp: sắc – tài – tình đều đạt đến mức tuyệt vời. => Chân dung của Thúy Kiều cũng là chân dung mang tính cách số phận. Ngòi bút Nguyễn Du đã nhuốm màu định mệnh. Vẻ đẹp của Kiều làm cho tạo hóa phải ghét, phải ghen, các vẻ đẹp khác phải đố kị. Sắc đẹp và tài năng của Kiều nổi trội quá mà thiên nhiên, tạo hóa thì: Lạ gì bỉ sắc tư phong Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen Đây cũng là điềm báo trước về cuộc đời đầy sóng gió, chông gai của nàng. d.Nhận xét chung về cuộc sống hai chị em Thúy Kiều. Bốn câu cuối cùng, tác giả ca ngợi đức hạnh của hai chị em trong một gia đình danh giá, nền nếp. Kiều và Vân đều là “khách hồng quần” lại đã đến tuổi lấy chồng “Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê”. Câu thơ có phụ âm đầu lặp lại theo từng cặp tạo cảm giác như hối hả, giục giã của tuổi xuân nhưng cả hai chị em vẫn giữ được nền nếp gia đình: ...

Tài liệu được xem nhiều: