Danh mục

CƠ CẤU XÃ HỘI – PHẦN 1

Số trang: 22      Loại file: pdf      Dung lượng: 156.73 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Phí tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (22 trang) 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Chương về cơ cấu xã hội cung cấp cho sinh viên một cái nhìn tổng thể về xã hội với những thành tố quan trọng của nó như vị thế xã hội và vai trò xã hội và những mối liên hệ giữa các thành tố xã hội như bất bình đẳng xã hội, phân tầng xã hội và cơ động xã hội. Từ đó, sinh viên sẽ có khả năng đánh giá những vấn đề đang tồn tại trong xã hội và bước đầu đưa ra những cách có thể giải quyết vấn đề. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CƠ CẤU XÃ HỘI – PHẦN 1 CƠ CẤU XÃ HỘI – PHẦN 1 Chương về cơ cấu xã hội cung cấp cho sinh viên một cái nhìn tổng thể về xã hội với những thành tố quan trọng của nó nh ư vị thế xã hội và vai trò xã hội và những mối liên hệ giữa các thành tố xã hội như bất bình đẳng xã hội, phân tầng xã hội và cơ động xã hội. Từ đó, sinh viên sẽ có khả năng đánh giá những vấn đề đang tồn tại trong xã hội và bước đầu đưa ra những cách có thể giải quyết vấn đề. 2.1. CƠ CẤU XÃ HỘI: 2.1.1. Khái niệm cơ cấu xã hội: Xã hội là một tổ chức phức tạp, thể hiện mối liên hệ của các cá nhân, các nhóm và các tổ chức xã hội. Người ta dùng khái niệm cơ cấu xã hội để chỉ cách thức tổ chức của một xã hội trong một giai đoạn nhất định của lịch sử. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về cơ cấu xã hội nhưng tựu chung lại thì đều cho rằng: Cơ cấu xã hội là kết cấu và hình thức tổ chức bên trong của một hệ thống xã hội, là mối liên hệ vững chắc của các thành tố xã hội trong hệ thống xã hội. Nói một cách cụ thể thì cơ cấu xã hội (hệ thống xã hội) bao gồm hai yếu tố: Một là: các thành phần xã hội tạo thành cơ cấu xã hội (giai cấp, dân tộc, các nhóm, thiết chế, vị trí, vai trò...). Hai là: mối liên hệ, chi phối lẫn nhau của các thành tố xã hội (quan hệ xã hội). Cơ cấu xã hội phản ánh những đặc trưng bản chất của xã hội, cho biết phương thức phân công, hợp tác và tổ chức hoạt động của một xã hội trên cơ sở một trình độ phân công lao động, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và các quan hệ xã hội nảy sinh trên cơ sở hệ thống các quan hệ sản xuất xã hội. Trong các xã hội khác nhau có các thành tố xã hội khác nhau. Cách thức hợp tác, liên hệ của các thành tố xã hội cũng theo những phương thức nhất định để thoả mãn nhu cầu của các cá nhân, cũng như của tập thể. Do đó, mỗi xã hội có một cấu trúc riêng. 2.1.2. Các phân hệ cơ cấu xã hội cơ bản: Xã hội có tính chất đa cơ cấu. Mỗi cơ cấu được xem như một bộ phận của cơ cấu xã hội nói chung. Trong đó, người ta thường nghiên cứu một số phân hệ của cơ cấu xã hội: a. Cơ cấu giai cấp: Trong các xã hội có giai cấp thì cơ cấu giai cấp đóng vai trò quyết định. Nhưng cách hiểu về giai cấp là khác nhau. Trong lịch sử xã hội học, Marx là người đầu tiên xác định khái niệm giai cấp một cách chặt chẽ. Theo ông: ' Giai cấp là những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được Pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất; về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội và như vậy là khác nhau về cách hưởng thụ của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người , mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định' (V.I.Lenin: Toàn tập, t.39, tr.17-18). Khác với Marx, Weber không sử dụng thuật ngữ giai cấp với nghĩa là nhóm các cá nhân đã phát triển ý thức giai cấp và đã tổ chức nhau lại vì mục đích giai cấp chung. Theo Weber, giai cấp là nhóm người có cơ may sống giống nhau, được xác định bởi vị trí kinh tế trong xã hội, những sản phẩm mà họ sở hữu và những cơ hội đối với thu nhập của họ. Nói theo xã hội học hiện đại, đó là tất cả những gì thuộc về tài sản, của cải. Tuy nhiên, theo Weber, bên cạnh vấn đề về của cải, còn phải kể đến các yếu tố uy tín (địa vị) và quyền lực (đảng phái) đối với sự phân tầng xã hội và biến đổi xã hội. Bên cạnh khái niệm giai cấp của Marx và Weber, còn có một số khái niệm khác về giai cấp do các nhà xã hội học đưa ra. Như theo các tác giả cuốn Nhập môn xã hội hoc (Bilton và những người khác, 1993) thì thuật ngữ giai cấp dùng để chỉ 'một nhóm xã hội mà các thành viên có vị trí tương đương nhau trong một cơ cấu bất bình đẳng khách quan về vật chất do một hệ thống những quan hệ kinh tế đặc trưng cho một phương thức sản xuất cụ thể tạo ra'. Hay như Stark, 1995: 'Giai cấp là nhóm người chia sẻ một vị trí giống nhau trong hệ thống phân tầng xã hội'. Có thể nói, xã hội phân hoá thành các giai cấp khác nhau, nhưng cách hiểu về các giai cấp lại không giống nhau. Nhìn chung, người ta thường hiểu giai cấp là một nhóm xã hội có vị trí kinh tế, chính trị và xã hội giống nhau nhưng không được quy định chính thức, không được thể chế hoá mà do sự nhận diện theo những chuẩn mực xã hội nhất định như giàu-nghèo, chủ-thợ, bị trị-thống trị... Cơ cấu giai cấp là hệ thống các giai cấp, tầng lớp, tập đoàn xã hội và các mối liên hệ giữa chúng. Theo các nhà xã hội học, cơ cấu giai cấp được coi là hạt nhân của cơ cấu xã hội và sự biến đổi của nó tạo nên sự biến đổi của cơ cấu xã hội. Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất được coi trọng khi xem xét cơ cấu giai cấp của xã hội. Tuy nhiên, sự phân chia cơ cấu giai cấp tuỳ thuộc vào mỗi một chế độ xã hội khác nhau, tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và trình độ phân công lao động xã hội. Xã hội học nghiên cứu cơ cấu giai cấp, nhấn mạnh đến việc nghiên cứu những tập đoàn người tạo thành các giai cấp cơ bản, chiếm vị trí quyết định đến sự phát triển và biến đổi của xã hội. Trong đó, quan hệ giai cấp, mâu thuẫn giai cấp, đấu tranh giai cấp được coi là động lực của sự vận động và biến đổi xã hội. b. Cơ cấu học vấn - nghề nghiệp: Nghiên cứu cơ cấu học vấn - nghề nghiệp giúp ta hiểu được trình độ học vấn của dân cư, sự phân công lao động và hợp tác lao động trong xã hội ở mỗi thời điểm cụ thể. Trình độ học vấn của xã hội phản ánh trình độ phát triển văn hoá kinh tế và mức độ tiến bộ xã hội của một đất nước, đồng thời, trình độ học vấn còn quyết định tốc độ phát triển của mỗi quốc gia. Sự chênh lệch về trình độ học vấn giữa các tầng lớp dân cư, giữa nam và nữ, giữa khu vực thành thị và nông thôn phản ánh rõ nét thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tạo nên sự khác biệt giữa ...

Tài liệu được xem nhiều: