Thông tin tài liệu:
Sử dụng keo nhựa thông để gia keo trực tiếp cho giấy là một trong những phương pháp truyền thống lâu đời nhất. Kể từ khi được Moris Iling phát minh ra từ năm 1807 đến nay, keo nhựa thông vẫn chưa mất đi tính ưu việt của nó. Các nhà sản xuất giấy tiếp tục làm phong phú thêm không chỉ bằng các loại keo nhựa thông mới mà còn bằng những cách tiếp cận mới đối với công nghệ gia keo để không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm cuối cùng và hạ giá thành. Trong gia...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cơ chế hóa học biến tính nhựa thông
Cơ chế hóa học biến tính
nhựa thông
Sử dụng keo nhựa thông để gia keo trực tiếp cho giấy là một
trong những phương pháp truyền thống lâu đời nhất. Kể từ khi
được Moris Iling phát minh ra từ năm 1807 đến nay, keo nhựa
thông vẫn chưa mất đi tính ưu việt của nó. Các nhà sản xuất giấy
tiếp tục làm phong phú thêm không chỉ bằng các loại keo nhựa
thông mới mà còn bằng những cách tiếp cận mới đối với công
nghệ gia keo để không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm
cuối cùng và hạ giá thành. Trong gia keo nội bộ được phân
thành hai loại: gia keo trong môi trường axit (nhựa thông
thường, pH 4-5) và gia keo trong môi trường trung tính hoặc
bazơ (keo nhựa thông biến tính và AKD, ASA… môi trường khi
gia keo pH ≥5). Hiện nay xu hướng gia keo nội bộ trên thế giới
là chuyển từ công nghệ gia keo trong môi trường axit sang môi
trường trung tính. Gia keo trong môi trường trung tính không có
nghĩa là từ bỏ sử dụng keo nhựa thông, mà còn làm tăng tính
cạnh tranh trong việc hoàn thiện thêm những công nghệ mới để
nâng cao hiệu quả gia keo bằng keo nhựa thông. Đây chính là
nguyên nhân ra đời các loại keo nhựa thông biến tính như keo
nhựa thông phân tán, keo nhựa thông ion dương…với môi
trường gia keo có khoảng pH lớn hơn và cách tiến hành khác đi
rất nhiều cả về cơ chế, phản ứng và tính chất khi gia keo
1. Thành phần, cấu tạo hóa học nhựa thông
Nhựa thông là hỗn hợp phức tạp các chất, tạo ra trong quá trình
tổng hợp nhựa trong tự nhiên của gỗ mềm. Hàm lượng nhựa
biến đổi 0.5÷3.0 % lượng gỗ khô tuyệt đối. Thành phần cấu tạo
phức tạp biến đổi theo nguồn gốc và quá trình chế biến trong sản
xuất.
Thành phần, cấu tạo hóa học của nhựa thông:
Thành phần hóa học của nhựa thông bao gồm: 87÷90% là hỗn
hợp của axit Diterpene hay còn gọi là axit nhựa, 10% là các chất
trung tính và 3÷5% là các axit béo. Công thức phân tử của nhựa
thông có dạng C19H29COOH.
Về công thức cấu tạo: Axit Diterpene là các đồng phân của axit
abietic (có 7 đồng phân) và d-Pimaric (có 3 đồng phân). Các
đồng phân này được tạo nên do sự phân bố cặp liên kết đôi trong
cấu trúc vòng tạo nên, Các đồng phân của hai axit được đưa ra ở
hình 1.1
Có sự khác biệt giữa hai cấu trúc axit, đồng phân dạng Abietic
kém bền hơn đồng phân dạng d-Pimaric. Để tăng độ bền của axit
nhựa (resin axit) có thể bằng cách dehydro hóa nhựa có chất xúc
tác.
Phần kị nước (3 vòng liên kết) của phân tử và nhóm cacboxyl có
vai trò quan trọng trong gia keo nhựa thông. Phần kị nước định
hướng đúng sẽ có tác dụng chống thấm nước. Phần háo nước là
nhóm cacboxyl là một axit rất yếu chuyển thành xà phòng tan
trong nước khi tham gia phản ứng với xút (NaOH), trong khi
muối với kiềm thổ và kim loại nặng không tan trong nước. Kim
loại đa hóa trị như Al3+ hoặc Ca2+ thường không dễ dàng tạo
thành như muối nhựa đơn hóa trị (mono-risinates) do khối lượng
phân tử lớn và sự cản trở vị trí của nhóm cacboxyl. Vì vậy hóa
trị kim loại tự do có thể tạo thành mỏ điểm liên kết xenluloza với
anion khác trong quá trình gia keo