CỎ LÀO
Số trang: 4
Loại file: pdf
Dung lượng: 122.37 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Cỏ Lào còn có tên là Yến Bạch, Cỏ hôi, Cỏ Việt Minh, Cây Cộng sản, Cây Lốp bốp, Cây Ba bớp, Cây Phân xanh, Cỏ Nhật. Tên khoa học: Chromolaena odorata (L) King et Robinson hoặc Eupatorium odoratum L. Họ Cúc (ASTERACEAE).Cỏ Lào là một loại cây nhỏ mọc thành bụi, thân hình trụ thẳng cao tới hơn 2 mét, có nhiều cành. Lá mọc đối, lúc non hình tam giác, dài 5 - 10cm, rộng 3 - 6cm; khi cây trưởng thành, lá biến dạng thành hình quả trám lệch. Đầu lá nhọn, mép có răng cưa...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CỎ LÀO CỎ LÀOCỏ Lào còn có tên là Yến Bạch, Cỏ hôi, Cỏ Việt Minh, Cây Cộng sản, Cây Lốpbốp, Cây Ba bớp, Cây Phân xanh, Cỏ Nhật. Tên khoa học: Chromolaena odorata(L) King et Robinson hoặc Eupatorium odoratum L. Họ Cúc (ASTERACEAE).Cỏ Lào là một loại cây nhỏ mọc thành bụi, thân hình trụ thẳng cao tới hơn 2 mét,có nhiều cành. Lá mọc đối, lúc non hình tam giác, dài 5 - 10cm, rộng 3 - 6cm; khicây trưởng thành, lá biến dạng thành hình quả trám lệch.Đầu lá nhọn, mép có răng cưa thưa, có lông thưa và ngắn ở cả hai mặt lá và ngọncành. Vò lá và cành non có mùi thơm hắc. Cụm hoa đầu, hình trụ dài 9 - 11mm,đường kính 5 - 6mm. Lúc mới nở, hoa màu xanh tím nhạt, sau trắng. Quả bé, nhỏdài, đầu có túm lông nên có thể phát tán đi rất xa nhờ gió. Mùa hoa tháng 11 - 12dương lịch.Ở Việt Nam, Cỏ Lào phân bố nhiều nhất ở trung du, miền núi thấp, ngay ở ngoạithành Hà Nội cũng thấy những bụi lớn cỏ Lào mọc ven đường. Cây có thể sinh sảnvô tính rất mạnh. Ngọn non, cành già bẻ trụi lá, cắm xuống đất chỉ một tuần sau làmọc rễ trắng. Chặt cây sát gốc càng đâm chồi mạnh. Mãi đến năm 1935 các nhàthực vật học mới ghi nhận cây Cỏ Lào ở Việt Nam. Vì vậy nó có tên là Cỏ Nhật,Cỏ Việt Minh, Cây Cộng sản.Các nhà khoa học nông nghiệp thấy nông dân hái ngọn và lá Cỏ Lào làm phânxanh nên nghiên cứu thành phần hoá học thấy giàu đạm, lân, kali. Lá và ngọn noncỏ Lào chứa: Đạm 2,65%, Kali (K2O) 2,48%, Lân (P2O5) 0,5%, tanin, ancaloid,tinh dầu.Năm 1976, Viện Nghiên cứu Y học quân sự công bố kết quả nghiên cứu: Tác dụngchống viêm, tác dụng kháng khuẩn, liều độc của Cỏ Lào. Tác dụng chống viêm:Lá, thân, rễ Cỏ Lào đều có tác dụng, nhưng lá mạnh hơn cả. Tác dụng khángkhuẩn: Nước sắc Cỏ Lào có tác dụng ức chế vi khuẩn gây mủ trên vết thương vàức chế trực khuẩn lỵ Shigella.Liều độc LD 50 trên chuột nhắt: Thân 160g/kg thể trọng. Lá 135g/kg thể trọng. Rễ120g/kg thể trọng.* Năm 1983 chúng tôi đã nghiên cứu xác định:Hiệu lực kháng khuẩn của Cỏ Lào theo tháng và theo tuổi. Ngọn non và lá bánh tẻthu hái trong các tháng đều có hiệu lực như nhau. Ngọn có nụ hiệu lực khángkhuẩn kém (điều này khác với các dược liệu khác, khi có nụ là lúc hoạt chất caonhất).So sánh giữa dược liệu tươi, khô và các dung môi chiết suất khác nhau thấy: Dượcliệu tươi chiết bằng nước nóng 80oC ít tạp chất và có hiệu lực kháng khuẩn caonhất, so với dược liệu khô và dung môi cồn. Cao đặc và cao khô (chiết từ dượcliệu tươi bằng nước nóng 80oC) bảo quản được lâu (sau 1 năm không mốc) và giữnguyên hiệu lực kháng khuẩn. Cao khô Cỏ Lào hút nước mạnh hơn cao khô dượcliệu khác.Chúng tôi thấy rằng sử dụng Cỏ Lào làm nguyên liệu sản xuất thuốc kháng viêm,kháng khuẩn thực vật, bổ sung cho các thuốc kháng khuẩn chế từ vi sinh vật đangbị kháng thuốc là một hướng mới cần được chú ý.DS. Trần Xuân Thuyết_CTQ số 20CÂY CỎ LÀO CÓ THỂ CHỮA BỆNH NAN YDịch chiết từ lá cây cỏ lào, ở những nồng độ nhất định có tác dụng kích thích sựtăng trưởng của tế bào gốc dây cuống rốn. Đây sẽ là cơ sở để tiến hành nghiên cứucác chế phẩm điều trị bệnh nan y.Th.S Mai Mạnh Tuấn, Khoa Nghiên cứu Đông y Thực nghiệm bệnh, Viện Y họcCổ truyền T.Ư cho biết. Ví dụ như điều trị vết loét do biến chứng ở bệnh nhân đáitháo đường. Thông thường, những bệnh nhân này phải mang thương tật suốt đờihoặc phải cắt bỏ chi trở thành tàn phế.Để điều trị, bác sĩ dùng tiêm một ít tế bào vào dưới vùng thương tổn để hỗ trợ cáctế bào khu vực đó. Sau đó, trộn một ít hỗn hợp gel - tế bào gốc bôi lên bề mặt vếtthương.Chỉ sau 3 tháng điều trị, mỗi tuần ghép tế bào 2 lần, vết loét của bệnh nhân có thểliền hẳn. Ngoài ra, ghép tế bào gốc còn được ứng dụng trong điều trị ung thư, ghépgiác mạc và phẫu thuật thẩm mỹ.Tuy nhiên, theo Th.S Mai Mạnh Tuấn, hiện nay, việc nuôi cấy tế bào gốc còn đanggặp nhiều khó khăn, trong khi đó, nhu cầu điều trị lại rất lớn.Theo kinh nghiệm dân gian cổ truyền, cỏ lào được dùng để điều trị nhiều căn bệnhnhư: Lỵ cấp tính, viêm đại tràng, ghẻ lở, cầm máu, chống viêm, chữa liền vếtthương…Nghiên cứu trên bệnh nhân bỏng cho thấy, dịch chiết từ lá cây cỏ lào có hiệu quảức chế vi khuẩn mạnh, có tác dụng kích thích biểu mô liền vết thương và giảmsưng viêm. Ngoài ra còn có tác dụng chữa vết thương ở mắt do xước hoặc loétgiác mạc.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CỎ LÀO CỎ LÀOCỏ Lào còn có tên là Yến Bạch, Cỏ hôi, Cỏ Việt Minh, Cây Cộng sản, Cây Lốpbốp, Cây Ba bớp, Cây Phân xanh, Cỏ Nhật. Tên khoa học: Chromolaena odorata(L) King et Robinson hoặc Eupatorium odoratum L. Họ Cúc (ASTERACEAE).Cỏ Lào là một loại cây nhỏ mọc thành bụi, thân hình trụ thẳng cao tới hơn 2 mét,có nhiều cành. Lá mọc đối, lúc non hình tam giác, dài 5 - 10cm, rộng 3 - 6cm; khicây trưởng thành, lá biến dạng thành hình quả trám lệch.Đầu lá nhọn, mép có răng cưa thưa, có lông thưa và ngắn ở cả hai mặt lá và ngọncành. Vò lá và cành non có mùi thơm hắc. Cụm hoa đầu, hình trụ dài 9 - 11mm,đường kính 5 - 6mm. Lúc mới nở, hoa màu xanh tím nhạt, sau trắng. Quả bé, nhỏdài, đầu có túm lông nên có thể phát tán đi rất xa nhờ gió. Mùa hoa tháng 11 - 12dương lịch.Ở Việt Nam, Cỏ Lào phân bố nhiều nhất ở trung du, miền núi thấp, ngay ở ngoạithành Hà Nội cũng thấy những bụi lớn cỏ Lào mọc ven đường. Cây có thể sinh sảnvô tính rất mạnh. Ngọn non, cành già bẻ trụi lá, cắm xuống đất chỉ một tuần sau làmọc rễ trắng. Chặt cây sát gốc càng đâm chồi mạnh. Mãi đến năm 1935 các nhàthực vật học mới ghi nhận cây Cỏ Lào ở Việt Nam. Vì vậy nó có tên là Cỏ Nhật,Cỏ Việt Minh, Cây Cộng sản.Các nhà khoa học nông nghiệp thấy nông dân hái ngọn và lá Cỏ Lào làm phânxanh nên nghiên cứu thành phần hoá học thấy giàu đạm, lân, kali. Lá và ngọn noncỏ Lào chứa: Đạm 2,65%, Kali (K2O) 2,48%, Lân (P2O5) 0,5%, tanin, ancaloid,tinh dầu.Năm 1976, Viện Nghiên cứu Y học quân sự công bố kết quả nghiên cứu: Tác dụngchống viêm, tác dụng kháng khuẩn, liều độc của Cỏ Lào. Tác dụng chống viêm:Lá, thân, rễ Cỏ Lào đều có tác dụng, nhưng lá mạnh hơn cả. Tác dụng khángkhuẩn: Nước sắc Cỏ Lào có tác dụng ức chế vi khuẩn gây mủ trên vết thương vàức chế trực khuẩn lỵ Shigella.Liều độc LD 50 trên chuột nhắt: Thân 160g/kg thể trọng. Lá 135g/kg thể trọng. Rễ120g/kg thể trọng.* Năm 1983 chúng tôi đã nghiên cứu xác định:Hiệu lực kháng khuẩn của Cỏ Lào theo tháng và theo tuổi. Ngọn non và lá bánh tẻthu hái trong các tháng đều có hiệu lực như nhau. Ngọn có nụ hiệu lực khángkhuẩn kém (điều này khác với các dược liệu khác, khi có nụ là lúc hoạt chất caonhất).So sánh giữa dược liệu tươi, khô và các dung môi chiết suất khác nhau thấy: Dượcliệu tươi chiết bằng nước nóng 80oC ít tạp chất và có hiệu lực kháng khuẩn caonhất, so với dược liệu khô và dung môi cồn. Cao đặc và cao khô (chiết từ dượcliệu tươi bằng nước nóng 80oC) bảo quản được lâu (sau 1 năm không mốc) và giữnguyên hiệu lực kháng khuẩn. Cao khô Cỏ Lào hút nước mạnh hơn cao khô dượcliệu khác.Chúng tôi thấy rằng sử dụng Cỏ Lào làm nguyên liệu sản xuất thuốc kháng viêm,kháng khuẩn thực vật, bổ sung cho các thuốc kháng khuẩn chế từ vi sinh vật đangbị kháng thuốc là một hướng mới cần được chú ý.DS. Trần Xuân Thuyết_CTQ số 20CÂY CỎ LÀO CÓ THỂ CHỮA BỆNH NAN YDịch chiết từ lá cây cỏ lào, ở những nồng độ nhất định có tác dụng kích thích sựtăng trưởng của tế bào gốc dây cuống rốn. Đây sẽ là cơ sở để tiến hành nghiên cứucác chế phẩm điều trị bệnh nan y.Th.S Mai Mạnh Tuấn, Khoa Nghiên cứu Đông y Thực nghiệm bệnh, Viện Y họcCổ truyền T.Ư cho biết. Ví dụ như điều trị vết loét do biến chứng ở bệnh nhân đáitháo đường. Thông thường, những bệnh nhân này phải mang thương tật suốt đờihoặc phải cắt bỏ chi trở thành tàn phế.Để điều trị, bác sĩ dùng tiêm một ít tế bào vào dưới vùng thương tổn để hỗ trợ cáctế bào khu vực đó. Sau đó, trộn một ít hỗn hợp gel - tế bào gốc bôi lên bề mặt vếtthương.Chỉ sau 3 tháng điều trị, mỗi tuần ghép tế bào 2 lần, vết loét của bệnh nhân có thểliền hẳn. Ngoài ra, ghép tế bào gốc còn được ứng dụng trong điều trị ung thư, ghépgiác mạc và phẫu thuật thẩm mỹ.Tuy nhiên, theo Th.S Mai Mạnh Tuấn, hiện nay, việc nuôi cấy tế bào gốc còn đanggặp nhiều khó khăn, trong khi đó, nhu cầu điều trị lại rất lớn.Theo kinh nghiệm dân gian cổ truyền, cỏ lào được dùng để điều trị nhiều căn bệnhnhư: Lỵ cấp tính, viêm đại tràng, ghẻ lở, cầm máu, chống viêm, chữa liền vếtthương…Nghiên cứu trên bệnh nhân bỏng cho thấy, dịch chiết từ lá cây cỏ lào có hiệu quảức chế vi khuẩn mạnh, có tác dụng kích thích biểu mô liền vết thương và giảmsưng viêm. Ngoài ra còn có tác dụng chữa vết thương ở mắt do xước hoặc loétgiác mạc.
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
chuyên ngành y khoa tài liệu y khoa lý thuyết y học giáo trình y học bài giảng y học bệnh lâm sàng chuẩn đoán bệnhTài liệu liên quan:
-
38 trang 168 0 0
-
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 167 0 0 -
Access for Dialysis: Surgical and Radiologic Procedures - part 3
44 trang 157 0 0 -
Bài giảng Kỹ thuật IUI – cập nhật y học chứng cứ - ThS. BS. Giang Huỳnh Như
21 trang 153 1 0 -
Bài giảng Tinh dầu và dược liệu chứa tinh dầu - TS. Nguyễn Viết Kình
93 trang 151 0 0 -
Tài liệu Bệnh Học Thực Hành: TĨNH MẠCH VIÊM TẮC
8 trang 126 0 0 -
Bài giảng Thoát vị hoành bẩm sinh phát hiện qua siêu âm và thái độ xử trí
19 trang 102 0 0 -
40 trang 101 0 0
-
Bài giảng Chẩn đoán và điều trị tắc động mạch ngoại biên mạn tính - TS. Đỗ Kim Quế
74 trang 92 0 0 -
40 trang 67 0 0