Cơ sở lý luận và thực tiễn về giáo dục mở
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 207.06 KB
Lượt xem: 15
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết trên cơ sở lý luận và thực tiễn về giáo dục mở, có thể khẳng định rằng trên thế giới, giáo dục mở đã và đang được phát triển với 3 trụ cột: tài nguyên giáo dục mở, các khóa học trực tuyến quy mô lớn và các trường đại học mở. Ở Việt Nam giáo dục mở đã và đang được triển khai theo hướng đổi mới hệ thống giáo dục, nhằm xây dựng nền giáo dục mở thực học, thực nghiệp, tạo cơ hội tiếp cận giáo dục cho mọi người, tạo điều kiện cho việc học suốt đời... Mời các bạn cungd tham khảo!
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cơ sở lý luận và thực tiễn về giáo dục mở CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ GIÁO DỤC MỞ TS. Lê Thị Mai Hoa1 Trong hơn 30 năm đổi mới, các văn kiện của Đảng luôn là ngọn đèn soi sáng, là cương lĩnh chiến lược chỉ đạo đường lối phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám khóa XII về “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo” là minh chứng cho tầm nhìn đúng đắn về nhu cầu cấp bách đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo để hội nhập quốc tế. Quan điểm và mục tiêu trong Nghị quyết đã nêu rõ: “Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo”; …”Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt, có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập...” và đã được thể hiện qua kết quả sau 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW. Tuy nhiên, bên cạnh ưu điểm đạt được, các nhà khoa học, quản lý giáo dục cũng đã chỉ ra những hạn chế trong quá trình triển khai Nghị quyết số 29-NQ/TW, đó là chưa đi sâu nghiên cứu để làm sáng tỏ cơ sở lý luận về “giáo dục mở”; chưa xây dựng lộ trình triển khai giáo dục mở để tạo bước đột phá đưa Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày càng đi vào cuộc sống (1). Mục đích bài viết này là làm rõ các cơ sở lý luận và thực tiễn về giáo dục mở ở Việt Nam”. Trào lưu giáo dục mở (GDM) đầu thế kỷ XXI đã và đang lan rộng từ Bắc xuống Nam bán cầu, thể hiện sự quan tâm của toàn thế giới về hiện tượng giáo dục đặc biệt này ở cả nước phát triển lẫn nước đang 1 Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục và Đào tạo, Dạy nghề, Ban Tuyên giáo Trung ương. PHẦN 1. TIẾP CẬN GIÁO DỤC MỞ VÀ TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ 85 phát triển (2). Tuy nhiên, việc phát triển các hướng tiếp cận về GDM đòi hỏi phải đi sâu tìm hiểu hơn nữa về nội hàm, ý nghĩa của thuật ngữ GDM; cách hiểu và công nhận, cũng như ảnh hưởng cụ thể chính sách GDM và biểu hiện của GDM trong thực tế (3). Ở Việt Nam, có thể nói ngày từ khi thành lập nhà nước dân chủ đầu tiên ở châu Á năm 1945, tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện cơ sở lý luận sâu sắc cho giáo dục nói chung và GDM nói riêng với ý tưởng nhân văn, mong muốn “ai cũng được học hành” của Người. Thực tiễn cho thấy, nền giáo dục truyền thống “khép kín” đã bộc lộ nhiều nhược điểm: trì trệ, thiếu dân chủ, thiếu linh hoạt, chưa phát huy được khả năng học tập, sáng tạo của từng cá nhân. Vì vậy, GDM phát triển sẽ bảo đảm cho việc xây dựng, tổ chức các nội dung, hình thức giáo dục của hệ thống được linh hoạt hơn, sáng tạo hơn; tạo ra cầu nối khắc phục tình trạng mất công bằng giáo dục, thúc đẩy xu thế học suốt đời cho mọi nguời, mọi nơi, mọi lúc nhằm tiến tới một xã hội học tập; tận dụng các nguồn lực cho giáo dục và bảo đảm tính hiệu quả, phát triển bền vững của hệ thống. Khi nghiên cứu về xu thế mở đối với hệ thống giáo dục, các nhà khoa học Mỹ đã tóm tắt hệ thống GDM ở Hoa Kỳ như sau: “Các quan niệm về hệ thống giáo dục sẽ phải hoạt động như thế nào, từ mẫu giáo đến đại học đều đang thay đổi. Chính ý tưởng về phân chia trình độ cấp học, lớp học hoặc phân tách cứng nhắc giữa trường phổ thông và trường đại học hiện đang gặp phải thách thức. Việc gia tăng nhanh chóng các lớp học, khóa học trực tuyến đã tạo ra sự tiếp cận chưa từng thấy cho một loạt nội dung học thuật, đặt nền móng cho một hệ thống giáo dục dựa trên năng lực và kinh nghiệm học tập của riêng từng cá nhân. Hệ thống GDM mang lại viễn cảnh học tập lấy học sinh làm trung tâm ở mọi trình độ. Ở mọi cấp học, GDM đáp ứng các nhu cầu và mục tiêu học tập của học sinh, giảm chi phí cho người đóng thuế và tăng cơ hội giáo dục cho tất cả mọi người” (2). Còn ở Anh, các nhà khoa học đã nhấn mạnh “Mô hình khác căn bản của GDM và trường đại học truyền thống”. Đây là cách mà các cơ sở đào tạo đại học cần phải tham gia mở rộng GDM, bên cạnh việc 86 XÂY DỰNG VÀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ cung cấp cơ hội thử nghiệm, phê phán và sáng tạo. Cùng với thành lập trường đại học, GDM cũng là một thách thức trực tiếp đối với tương lai của cơ sở đào tạo. Điều quan trọng cần lưu ý là ngày càng có nhiều chiến lược dạy - học ngắn hạn và dài hạn được các cơ sở đại học chấp nhận vì được xác định bởi một trong những lĩnh vực không rõ ràng nhất về quản trị học thuật. Khi nghiên cứu GDM trong sự đột phá truyền thông, họ dùng thuật ngữ đột phá “discruption” có nguồn gốc từ học thuyết kinh tế của Karl Marx, theo đó phát triển tư bản xảy ra là do kết quả sự phá hủy sáng tạo hệ thống kinh tế trước đó. Tuy nhiên, đã có lập luận cho rằng trong nhận thức chủ nghĩa tư bản ngày nay, trường đại học mới là một “không gian chính yếu cho mâu thuẫn”, nơi mà quyền sở hữu tri thức, sự sản sinh lực lượng lao động, và việc tạo ra những phân tầng xã hội và văn hoá đều bị đe doạ. Do đó giáo dục ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cơ sở lý luận và thực tiễn về giáo dục mở CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ GIÁO DỤC MỞ TS. Lê Thị Mai Hoa1 Trong hơn 30 năm đổi mới, các văn kiện của Đảng luôn là ngọn đèn soi sáng, là cương lĩnh chiến lược chỉ đạo đường lối phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám khóa XII về “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo” là minh chứng cho tầm nhìn đúng đắn về nhu cầu cấp bách đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo để hội nhập quốc tế. Quan điểm và mục tiêu trong Nghị quyết đã nêu rõ: “Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo”; …”Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt, có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập...” và đã được thể hiện qua kết quả sau 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW. Tuy nhiên, bên cạnh ưu điểm đạt được, các nhà khoa học, quản lý giáo dục cũng đã chỉ ra những hạn chế trong quá trình triển khai Nghị quyết số 29-NQ/TW, đó là chưa đi sâu nghiên cứu để làm sáng tỏ cơ sở lý luận về “giáo dục mở”; chưa xây dựng lộ trình triển khai giáo dục mở để tạo bước đột phá đưa Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày càng đi vào cuộc sống (1). Mục đích bài viết này là làm rõ các cơ sở lý luận và thực tiễn về giáo dục mở ở Việt Nam”. Trào lưu giáo dục mở (GDM) đầu thế kỷ XXI đã và đang lan rộng từ Bắc xuống Nam bán cầu, thể hiện sự quan tâm của toàn thế giới về hiện tượng giáo dục đặc biệt này ở cả nước phát triển lẫn nước đang 1 Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục và Đào tạo, Dạy nghề, Ban Tuyên giáo Trung ương. PHẦN 1. TIẾP CẬN GIÁO DỤC MỞ VÀ TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ 85 phát triển (2). Tuy nhiên, việc phát triển các hướng tiếp cận về GDM đòi hỏi phải đi sâu tìm hiểu hơn nữa về nội hàm, ý nghĩa của thuật ngữ GDM; cách hiểu và công nhận, cũng như ảnh hưởng cụ thể chính sách GDM và biểu hiện của GDM trong thực tế (3). Ở Việt Nam, có thể nói ngày từ khi thành lập nhà nước dân chủ đầu tiên ở châu Á năm 1945, tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện cơ sở lý luận sâu sắc cho giáo dục nói chung và GDM nói riêng với ý tưởng nhân văn, mong muốn “ai cũng được học hành” của Người. Thực tiễn cho thấy, nền giáo dục truyền thống “khép kín” đã bộc lộ nhiều nhược điểm: trì trệ, thiếu dân chủ, thiếu linh hoạt, chưa phát huy được khả năng học tập, sáng tạo của từng cá nhân. Vì vậy, GDM phát triển sẽ bảo đảm cho việc xây dựng, tổ chức các nội dung, hình thức giáo dục của hệ thống được linh hoạt hơn, sáng tạo hơn; tạo ra cầu nối khắc phục tình trạng mất công bằng giáo dục, thúc đẩy xu thế học suốt đời cho mọi nguời, mọi nơi, mọi lúc nhằm tiến tới một xã hội học tập; tận dụng các nguồn lực cho giáo dục và bảo đảm tính hiệu quả, phát triển bền vững của hệ thống. Khi nghiên cứu về xu thế mở đối với hệ thống giáo dục, các nhà khoa học Mỹ đã tóm tắt hệ thống GDM ở Hoa Kỳ như sau: “Các quan niệm về hệ thống giáo dục sẽ phải hoạt động như thế nào, từ mẫu giáo đến đại học đều đang thay đổi. Chính ý tưởng về phân chia trình độ cấp học, lớp học hoặc phân tách cứng nhắc giữa trường phổ thông và trường đại học hiện đang gặp phải thách thức. Việc gia tăng nhanh chóng các lớp học, khóa học trực tuyến đã tạo ra sự tiếp cận chưa từng thấy cho một loạt nội dung học thuật, đặt nền móng cho một hệ thống giáo dục dựa trên năng lực và kinh nghiệm học tập của riêng từng cá nhân. Hệ thống GDM mang lại viễn cảnh học tập lấy học sinh làm trung tâm ở mọi trình độ. Ở mọi cấp học, GDM đáp ứng các nhu cầu và mục tiêu học tập của học sinh, giảm chi phí cho người đóng thuế và tăng cơ hội giáo dục cho tất cả mọi người” (2). Còn ở Anh, các nhà khoa học đã nhấn mạnh “Mô hình khác căn bản của GDM và trường đại học truyền thống”. Đây là cách mà các cơ sở đào tạo đại học cần phải tham gia mở rộng GDM, bên cạnh việc 86 XÂY DỰNG VÀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ cung cấp cơ hội thử nghiệm, phê phán và sáng tạo. Cùng với thành lập trường đại học, GDM cũng là một thách thức trực tiếp đối với tương lai của cơ sở đào tạo. Điều quan trọng cần lưu ý là ngày càng có nhiều chiến lược dạy - học ngắn hạn và dài hạn được các cơ sở đại học chấp nhận vì được xác định bởi một trong những lĩnh vực không rõ ràng nhất về quản trị học thuật. Khi nghiên cứu GDM trong sự đột phá truyền thông, họ dùng thuật ngữ đột phá “discruption” có nguồn gốc từ học thuyết kinh tế của Karl Marx, theo đó phát triển tư bản xảy ra là do kết quả sự phá hủy sáng tạo hệ thống kinh tế trước đó. Tuy nhiên, đã có lập luận cho rằng trong nhận thức chủ nghĩa tư bản ngày nay, trường đại học mới là một “không gian chính yếu cho mâu thuẫn”, nơi mà quyền sở hữu tri thức, sự sản sinh lực lượng lao động, và việc tạo ra những phân tầng xã hội và văn hoá đều bị đe doạ. Do đó giáo dục ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Cơ sở lý luận và thực tiễn về giáo dục mở Giáo dục mở Đổi mới hệ thống giáo dục Xây dựng nền giáo dục mở Đổi mới phương thức giáo dục Hệ thống giáo dục mởGợi ý tài liệu liên quan:
-
Tiêu chí đánh giá năng lực giảng viên đại học ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay
8 trang 69 0 0 -
Tài nguyên giáo dục mở - Cơ hội đối với hệ thống thư viện công cộng
7 trang 23 0 0 -
Thư viện số, tài nguyên giáo dục mở góp phần thúc đẩy giáo dục mở Việt Nam
5 trang 21 0 0 -
10 trang 21 0 0
-
Xây dựng và khai thác tài nguyên giáo dục mở trong bối cảnh của giáo dục mở và chuyển đổi số
6 trang 20 0 0 -
Sư phạm mở trong nền giáo dục mở
9 trang 20 0 0 -
5 trang 16 0 0
-
Mô hình liên kết đào tạo đại học trực tuyến trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
8 trang 16 0 0 -
Tài nguyên giáo dục mở (OER) và đào tạo trực tuyến (E-Learning)
8 trang 16 0 0 -
Giáo dục mở: Xu hướng mới trong giáo dục đại học hiện nay
9 trang 16 0 0