Danh mục

Cơ sở sinh thái học cho phát triển bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu

Số trang: 21      Loại file: pdf      Dung lượng: 1.68 MB      Lượt xem: 12      Lượt tải: 0    
Thư Viện Số

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 19,000 VND Tải xuống file đầy đủ (21 trang) 0

Báo xấu

Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết cung cấp và phân tích các thông tin về tính chống chịu của hệ thống và các giải pháp để tăng cường tính chống chịu của các hệ thống bao gồm hệ thống vật lý, hệ sinh thái, hệ xã hội và hệ sinh thái xã hội, phục vụ cho phát triển bền vững, cho thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu, từ đó đưa ra tổng kết các hoạt động nghiên cứu triển khai ở Việt Nam.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Cơ sở sinh thái học cho phát triển bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu CƠ SỞ SINH THÁI HỌC CHO PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Trương Quang Học Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học Quốc gia Hà Nội Tóm tắt Cách tiếp cận hệ sinh thái/dựa trên hệ sinh thái (HST) (do Công ước Đa dạng sinh học đề xuất) là một chiến lược quản lý tổng hợp tài nguyên thiên nhiên (đất, nước và sinh vật). Gần đây, cách tiếp cận này đã được áp dụng rộng rãi trong phát triển bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu, khi đặt con người và thực tiễn sử dụng tài nguyên là trung tâm của các HST. Dựa trên sự phân tích cấu trúc và tính phức hợp (sự liên kết và tương tác giữa các hợp phần trong HST và giữa HST với các hệ chung quanh khác), bài báo đã cung cấp và phân tích các thông tin về tính chống chịu của hệ thống và các giải pháp để tăng cường tính chống chịu của các hệ thống bao gồm hệ thống vật lý, hệ sinh thái, hệ xã hội và hệ sinh thái-xã hội, phục vụ cho phát triển bền vững, cho thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu. Bài báo cũng tổng kết các hoạt động nghiên cứu-triển khai ở Việt Nam theo cách tiếp cận này và đề xuất các giải pháp tăng cường hiệu quả áp dụng cách tiếp cận trong bối cảnh biến đổi toàn cầu hiện nay. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Hiện nay, thế giới đang đứng trước những cuộc khủng hoảng lớn về kinh tế, xã hội và môi trường, trong đó nghiêm trọng nhất là cuộc khủng hoảng khí hậu – biến đổi khí hậu (BĐKH). Trong bối cảnh đó, chiến lược phát triển bền vững (PTBV) của thế giới cũng như của các nước tập trung theo ba hướng: (i) xã hội cacbon thấp; (ii) xã hội tái tạo tài nguyên; và (iii) xã hội hài hòa với thiên nhiên (Sumi và nnk., 2011). Theo đó, trong rất nhiều các lĩnh vực của đời sống xã hội hiện nay đều theo xu hướng có tính từ xanh (Green) với hàm ý hợp sinh thái: phát triển xanh/tăng trưởng xanh/kinh tế xanh, năng lượng xanh, lối sống xanh, cơ quan xanh, xí nghiệp xanh, đô thị xanh/sinh thái... Theo Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP), kinh tế xanh là nền kinh tế nâng cao đời sống của con người và cải thiện công bằng xã hội, đồng thời giảm đáng kể những rủi ro môi trường và những thiếu hụt sinh thái. Nói một cách đơn giản, nền kinh tế xanh có mức phát thải khí nhà kính thấp, sử dụng hiệu quả tài nguyên và hướng tới công bằng xã hội. Tại Hội nghị Thượng đỉnh của Liên Hợp Quốc về PTBV – RIO+20 tại Rio de Janeiro, Braxin (tháng 6/2012), có hai chủ đề trọng tâm: “Cải thiện khuôn khổ thể chế để phát triển bền vững và phát triển nền kinh tế xanh trong bối cảnh phát triển bền vững và xóa đói nghèo” với hy vọng khẳng định một “Tương lai mà chúng ta mong muốn” trong bối cảnh biến đổi toàn cầu hiện nay. 3 Kinh tế xanh là con đường có thể hóa giải được mâu thuẫn quan trọng nhất hiện nay nhằm đạt được cả hai mục tiếu: ứng phó với BĐKH và PTBV. Tuyên bố “Tương lai mà chúng ta mong muốn” của RIO+20 tuy chưa có các cam kết mang tính ràng buộc pháp lý, nhưng đã đặt được viên gạch đầu tiên cho Chiến lược Kinh tế xanh – con đường phát triển kinh tế hài hòa với môi trường, giảm nhẹ BĐKH để thực hiện các mục tiêu PTBV (RIO+20 Outcome Documents, 2012)… Bài viết này nhằm thảo luận một khía cạnh khác của phát triển xanh – “cách tiếp cận xanh” – tiếp cận dựa trên hệ sinh thái (HST), nhằm duy trì và nâng cao tính chống chịu-thích ứng của các HST tự nhiên và các hệ sinh thái-xã hội trong PTBV và ứng phó với BĐKH. 1. HỆ SINH THÁI VÀ CÁC HỆ THỐNG LIÊN QUAN 1.1. Hệ sinh thái Theo sự hiểu biết của chúng ta thì sự sống trên Trái đất có một lịch sử phát triển khoảng 3,6-3,8 tỷ năm. Tổng số loài sinh vật có trong sinh quyển hiện nay ước tính từ 5 đến 30 triệu loài hay hơn. Nhiều nhóm, nhiều loài sinh vật còn chưa hoặc được biết rất ít, nhất là các loài vi sinh vật. Trong môi trường, tất cả các sinh vật đều có mối liên quan chặt chẽ với nhau và với môi trường sống xung quanh, hình thành nên các hệ sinh thái (Watson và Heywood, 1995). Hệ sinh thái (hệ sinh thái tự nhiên hay hệ Trái đất) (Ecosystem/Natural Ecosystem/Earth’s System – HST) được hiểu là một tổ hợp động của quần xã thực vật, động vật, vi sinh vật và các điều kiện môi trường vô sinh xung quanh, trong sự tương tác lẫn nhau như một đơn vị chức năng thông qua các dòng năng lượng và các chu trình vật chất. Như vậy, HST là đơn vị tổ chức cơ bản của sinh quyển, có quy mô thay đổi, từ nhỏ bé như một bể cá cảnh, đến rộng lớn như rừng mưa nhiệt đới (biom). Giới hạn của HST thường được xác định theo mục đích của từng nghiên cứu cụ thể. Hệ sinh thái là một hệ mở, luôn có sự liên hệ với các hệ khác xung quanh. 1.2. Hệ xã hội và hệ sinh thái-xã hội Vào khoảng 60.000 năm trước đây (“2 giây trước lúc nửa đêm”, Hình 1.1.), loài người (Homo sapiens sapiens) xuất hiện trên Trái đất. Loài người, với những đặc trưng của mình: có não bộ phát triển, có tư duy trừu tượng, biết dùng lửa và công cụ lao động để tác động vào tự nhiên, để phát triển, đã tách ra khỏi giới tự nhiên trong hệ thống tiến hóa. Nếu thế giới sinh vật sống trong ...

Tài liệu được xem nhiều: