Công ty mẹ con
Số trang: 3
Loại file: pdf
Dung lượng: 137.68 KB
Lượt xem: 16
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Mô hình công ty mẹ con đang trở nên phổ biến ở Việt Nam, cả ở doanh nghiệp nhà nước lẫn tư nhân. Luật sư Nguyễn Ngọc Bích sẽ giúp các nhà đầu tư hiểu rõ hơn về mô hình này.
Công ty mẹ con là từ ngữ của chúng ta để chỉ mối quan hệ giữa những công ty nắm vốn của nhau, thí dụ công ty A nắm một số phần trăm vốn của công ty B. Tìm lai lịch của sự xuất hiện công ty mẹ con ở các nước phát triển ta sẽ thấy nguyên do kinh...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Công ty mẹ con Công ty mẹ con Mô hình công ty mẹ con đang trở nên phổ biến ở Việt Nam, cả ở doanh nghiệp nhà nước lẫn tư nhân. Luật sư Nguyễn Ngọc Bích sẽ giúp các nhà đầu tư hiểu rõ hơn về mô hình này. Công ty mẹ con là từ ngữ của chúng ta để chỉ mối quan hệ giữa những công ty nắm vốn của nhau, thí dụ công ty A nắm một số phần trăm vốn của công ty B. Tìm lai lịch của sự xuất hiện công ty mẹ con ở các nước phát triển ta sẽ thấy nguyên do kinh tế là nền tảng. Còn ở Việt Nam thì sao? Công ty mẹ con ở ta Định chế công ty tư nhân của ta mới tồn tại gần 20 năm. Thoạt đầu, các công ty do các chủ gia đình nắm giữ trong bối cảnh cầu cao hơn cung của nền kinh tế. Các ông chủ mở công ty theo kiểu cần đến đâu mở đến đó. Không mẹ con lằng nhằng. Cũng có thể công ty khi ăn nên làm ra thì chỉ mở những ngành khác nhau trong nội bộ với chế độ hạch toán báo sổ. Chẳng cần mẹ con. Các công ty phát triển theo hai cách này đều gặp hai trở ngại chung và lớn là quản trị và nhân sự. Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đã tồn tại trên 50 năm. Vốn của chúng do một ông chủ duy nhất nắm. Nhà nước nắm vốn thì mở công ty tùy ý. Khác với tư nhân, DNNN phải đối phó với vấn đề hiệu quả kinh doanh - một hậu quả trầm trọng hơn của quản trị và nhân sự. Để giải quyết, Nhà nước với quyền lực của mình đã thiết lập các tổng công ty 90 và 91. Bất kể đến lai lịch hình thành của mình và của thế giới ra sao, Nhà nước nói là “xây dựng các tập đoàn” để có “quả đấm mạnh”. Vì các căn bệnh bẩm sinh của nó là quản trị và nhân sự không hề được chữa nên các tổng công ty không thành công về mặt kinh doanh. Để vượt qua thất bại đó và trước áp lực hội nhập, Nhà nước bèn chuyển các tổng công ty thành công ty mẹ con. Trước biến chuyển của DNNN, các công ty tư nhân cũng làm theo. Công ty nào có mặt ở nhiều địa phương thì sắp xếp lại thành mẹ với con; ai có nhiều ngành trong nội bộ sẽ tách ra thành con với mẹ. Ở đây có sự chuyển vốn để có thể đăng ký. Trong quá trình chuyển đổi ấy, ta thấy các công ty tư nhân thực hiện chuyển đổi mô hình là để giải quyết vấn đề quản trị, thông qua đó giải quyết vấn đề nhân sự; còn ở DNNN là để Nhà nước rút bớt vốn về và tăng hiệu quả kinh doanh. Như vậy, công ty mẹ con của chúng ta không phát xuất trên một nền tảng kinh tế giống như ở các nước khác. Cơ cấu thẩm quyền giữa mẹ và con Để công ty mẹ con hoạt động có hiệu quả và đúng mục đích phải có hai điều kiện (i) công ty mẹ bỏ vốn vào công ty con, và (ii) công ty mẹ đã phải được quản trị theo khoa học; nghĩa là nó đã có một nền nếp được ghi vào một hệ thống văn bản; việc quản trị dựa trên sự kiểm soát cách thực hiện các quy trình chứ không phải dựa trên niềm tin vào những người nhất định. Không làm được việc sau thì dù con hát mẹ khen hay đến đâu cũng sẽ thất bại như đã từng thấy. Trước khi đi sâu hơn nữa, xin được nêu lên hai nhận xét. Thứ nhất, trong nhiều doanh nghiệp, cả tư nhân lẫn DNNN, lãnh đạo và phụ tá nhầm lẫn về bản chất pháp lý của công ty mẹ con. Vì chúng ta gọi “mẹ con” nên không ít người khi chuyển đổi mô hình thì đã coi công ty mẹ con theo ý nghĩa mẹ con trong một gia đình. Xin nhắc lại, “mẹ con” là từ ngữ chúng ta gọi trong luật; ở nước ngoài từ ngữ chính thức là affiliated companies. Chúng là các pháp nhân riêng rẽ, dính dấp với nhau về việc quản trị do việc pháp nhân này bỏ vốn vào pháp nhân kia. Về mặt luật pháp, “công ty mẹ con” không kiểm soát theo cách bố mẹ vẫn kiểm soát con cái trong nhà. Chính xác hơn thì phải hiểu là bố mẹ kiểm soát các “đứa con đã lập gia đình”. Kiểm soát “con cái đã có gia đình” thì khác xa với kiểm soát “đứa con độc thân”. Đấy là sự đổi thay cần thiết về mặt tâm lý khi chúng ta chuyển đổi cơ cấu vật chất. Thứ hai, công ty mẹ kiểm soát công ty con nhiều hay ít là tùy theo (i) số vốn bỏ vào trong đó và (ii) quyền biểu quyết trong hội đồng quản trị. Việc sau đòi hỏi công ty mẹ phải cử một vài người thay mặt mình làm cổ đông để họ được bầu vào hội đồng quản trị và chiếm đa số biểu quyết ở đó; vì nơi này quyết định theo số thành viên tham dự. Hơn thế nữa, công ty con chịu trách nhiêm vô hạn cho chính việc làm của nó; nó không thể cầu cứu công ty mẹ khi đứng trước người khác hay tòa án; cho nên các quyết định của nó phải do nội bộ của nó đưa ra chứ không phải từ công ty mẹ đi xuống; nó không thể nói với họ: “Mẹ em bảo làm!”. Tôi đã được đọc một vài bản điều lệ của công ty mẹ chuyển đổi, tư nhân lẫn DNNN, trong đó công ty mẹ ấn định thẩm quyền của nó đối với các công ty con luôn. Việc này phải sửa ngay; vì bản điều lệ của công ty mẹ không ràng buộc được các công ty con. Mẹ ràng con là qua cách kiểm soát đã nêu ở trên. Thậm chí, có công ty ấn định người đại diện pháp luật của công ty mẹ đồng thời là đại diện luôn ở các công ty con. Đấy là ôm rơm cho rặm bụng vì vai trò của người đại diện pháp lý của công ty chúng ta đã biết. Chính ý nghĩa “mẹ con” mà chúng ta dùng làm chúng ta hiểu sai tính chất pháp lý của công ty mẹ con. Tương tự, nếu một công ty mẹ muốn ấn định thẩm quyền cho các chức danh khác nhau trong hệ thống công ty con của mình thì cũng không thể làm một bản chung cho toàn hệ thống, mà phải tách ra thẩm quyền của những chức danh nhất định cho từng công ty. Ở các công ty đa quốc, họ đem nguyên quyển quy chế hoạt động của công ty mẹ, gọi là “thể thức điều hành tiêu chuẩn” (standard operating procedure) cho các công ty con áp dụng sau khi sửa đổi một một số chỗ để phù hợp với điều kiện địa phương. Họ không làm một bản để áp dụng trên toàn thế giới! Vậy khi nói công ty mẹ con ở ta thì phải hiểu: “mẹ con = mẹ của những đứa con đã... có gia đình”. Lai lịch mô hình công ty mẹ con Lấy nước Mỹ làm thí dụ. Những năm từ 1880 trở đi ở đó đã có rất nhiều công ty hoạt động trong những ngành công nghiệp khác nhau. Họ là nguồn cung trong nền kinh tế. Khi số cung nhiều thì giá hàng sẽ giảm và lợi tức sẽ ít đi. Để chống lại mối nguy này, các công ty sản xuất các công đoạn khác nhau của một sản phẩm (dầu khí) kết hợp lại với nhau theo các loại hợp đồng để lập nên mộ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Công ty mẹ con Công ty mẹ con Mô hình công ty mẹ con đang trở nên phổ biến ở Việt Nam, cả ở doanh nghiệp nhà nước lẫn tư nhân. Luật sư Nguyễn Ngọc Bích sẽ giúp các nhà đầu tư hiểu rõ hơn về mô hình này. Công ty mẹ con là từ ngữ của chúng ta để chỉ mối quan hệ giữa những công ty nắm vốn của nhau, thí dụ công ty A nắm một số phần trăm vốn của công ty B. Tìm lai lịch của sự xuất hiện công ty mẹ con ở các nước phát triển ta sẽ thấy nguyên do kinh tế là nền tảng. Còn ở Việt Nam thì sao? Công ty mẹ con ở ta Định chế công ty tư nhân của ta mới tồn tại gần 20 năm. Thoạt đầu, các công ty do các chủ gia đình nắm giữ trong bối cảnh cầu cao hơn cung của nền kinh tế. Các ông chủ mở công ty theo kiểu cần đến đâu mở đến đó. Không mẹ con lằng nhằng. Cũng có thể công ty khi ăn nên làm ra thì chỉ mở những ngành khác nhau trong nội bộ với chế độ hạch toán báo sổ. Chẳng cần mẹ con. Các công ty phát triển theo hai cách này đều gặp hai trở ngại chung và lớn là quản trị và nhân sự. Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đã tồn tại trên 50 năm. Vốn của chúng do một ông chủ duy nhất nắm. Nhà nước nắm vốn thì mở công ty tùy ý. Khác với tư nhân, DNNN phải đối phó với vấn đề hiệu quả kinh doanh - một hậu quả trầm trọng hơn của quản trị và nhân sự. Để giải quyết, Nhà nước với quyền lực của mình đã thiết lập các tổng công ty 90 và 91. Bất kể đến lai lịch hình thành của mình và của thế giới ra sao, Nhà nước nói là “xây dựng các tập đoàn” để có “quả đấm mạnh”. Vì các căn bệnh bẩm sinh của nó là quản trị và nhân sự không hề được chữa nên các tổng công ty không thành công về mặt kinh doanh. Để vượt qua thất bại đó và trước áp lực hội nhập, Nhà nước bèn chuyển các tổng công ty thành công ty mẹ con. Trước biến chuyển của DNNN, các công ty tư nhân cũng làm theo. Công ty nào có mặt ở nhiều địa phương thì sắp xếp lại thành mẹ với con; ai có nhiều ngành trong nội bộ sẽ tách ra thành con với mẹ. Ở đây có sự chuyển vốn để có thể đăng ký. Trong quá trình chuyển đổi ấy, ta thấy các công ty tư nhân thực hiện chuyển đổi mô hình là để giải quyết vấn đề quản trị, thông qua đó giải quyết vấn đề nhân sự; còn ở DNNN là để Nhà nước rút bớt vốn về và tăng hiệu quả kinh doanh. Như vậy, công ty mẹ con của chúng ta không phát xuất trên một nền tảng kinh tế giống như ở các nước khác. Cơ cấu thẩm quyền giữa mẹ và con Để công ty mẹ con hoạt động có hiệu quả và đúng mục đích phải có hai điều kiện (i) công ty mẹ bỏ vốn vào công ty con, và (ii) công ty mẹ đã phải được quản trị theo khoa học; nghĩa là nó đã có một nền nếp được ghi vào một hệ thống văn bản; việc quản trị dựa trên sự kiểm soát cách thực hiện các quy trình chứ không phải dựa trên niềm tin vào những người nhất định. Không làm được việc sau thì dù con hát mẹ khen hay đến đâu cũng sẽ thất bại như đã từng thấy. Trước khi đi sâu hơn nữa, xin được nêu lên hai nhận xét. Thứ nhất, trong nhiều doanh nghiệp, cả tư nhân lẫn DNNN, lãnh đạo và phụ tá nhầm lẫn về bản chất pháp lý của công ty mẹ con. Vì chúng ta gọi “mẹ con” nên không ít người khi chuyển đổi mô hình thì đã coi công ty mẹ con theo ý nghĩa mẹ con trong một gia đình. Xin nhắc lại, “mẹ con” là từ ngữ chúng ta gọi trong luật; ở nước ngoài từ ngữ chính thức là affiliated companies. Chúng là các pháp nhân riêng rẽ, dính dấp với nhau về việc quản trị do việc pháp nhân này bỏ vốn vào pháp nhân kia. Về mặt luật pháp, “công ty mẹ con” không kiểm soát theo cách bố mẹ vẫn kiểm soát con cái trong nhà. Chính xác hơn thì phải hiểu là bố mẹ kiểm soát các “đứa con đã lập gia đình”. Kiểm soát “con cái đã có gia đình” thì khác xa với kiểm soát “đứa con độc thân”. Đấy là sự đổi thay cần thiết về mặt tâm lý khi chúng ta chuyển đổi cơ cấu vật chất. Thứ hai, công ty mẹ kiểm soát công ty con nhiều hay ít là tùy theo (i) số vốn bỏ vào trong đó và (ii) quyền biểu quyết trong hội đồng quản trị. Việc sau đòi hỏi công ty mẹ phải cử một vài người thay mặt mình làm cổ đông để họ được bầu vào hội đồng quản trị và chiếm đa số biểu quyết ở đó; vì nơi này quyết định theo số thành viên tham dự. Hơn thế nữa, công ty con chịu trách nhiêm vô hạn cho chính việc làm của nó; nó không thể cầu cứu công ty mẹ khi đứng trước người khác hay tòa án; cho nên các quyết định của nó phải do nội bộ của nó đưa ra chứ không phải từ công ty mẹ đi xuống; nó không thể nói với họ: “Mẹ em bảo làm!”. Tôi đã được đọc một vài bản điều lệ của công ty mẹ chuyển đổi, tư nhân lẫn DNNN, trong đó công ty mẹ ấn định thẩm quyền của nó đối với các công ty con luôn. Việc này phải sửa ngay; vì bản điều lệ của công ty mẹ không ràng buộc được các công ty con. Mẹ ràng con là qua cách kiểm soát đã nêu ở trên. Thậm chí, có công ty ấn định người đại diện pháp luật của công ty mẹ đồng thời là đại diện luôn ở các công ty con. Đấy là ôm rơm cho rặm bụng vì vai trò của người đại diện pháp lý của công ty chúng ta đã biết. Chính ý nghĩa “mẹ con” mà chúng ta dùng làm chúng ta hiểu sai tính chất pháp lý của công ty mẹ con. Tương tự, nếu một công ty mẹ muốn ấn định thẩm quyền cho các chức danh khác nhau trong hệ thống công ty con của mình thì cũng không thể làm một bản chung cho toàn hệ thống, mà phải tách ra thẩm quyền của những chức danh nhất định cho từng công ty. Ở các công ty đa quốc, họ đem nguyên quyển quy chế hoạt động của công ty mẹ, gọi là “thể thức điều hành tiêu chuẩn” (standard operating procedure) cho các công ty con áp dụng sau khi sửa đổi một một số chỗ để phù hợp với điều kiện địa phương. Họ không làm một bản để áp dụng trên toàn thế giới! Vậy khi nói công ty mẹ con ở ta thì phải hiểu: “mẹ con = mẹ của những đứa con đã... có gia đình”. Lai lịch mô hình công ty mẹ con Lấy nước Mỹ làm thí dụ. Những năm từ 1880 trở đi ở đó đã có rất nhiều công ty hoạt động trong những ngành công nghiệp khác nhau. Họ là nguồn cung trong nền kinh tế. Khi số cung nhiều thì giá hàng sẽ giảm và lợi tức sẽ ít đi. Để chống lại mối nguy này, các công ty sản xuất các công đoạn khác nhau của một sản phẩm (dầu khí) kết hợp lại với nhau theo các loại hợp đồng để lập nên mộ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
mô hình công ty mẹ con quản trị kinh doanh quản lý nhà nước doanh nghiệp nhà nước kinh tế thị trườngGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Quản lý nhà nước về kinh tế: Phần 1 - GS. TS Đỗ Hoàng Toàn
238 trang 409 2 0 -
99 trang 401 0 0
-
Doanh nghiệp bán lẻ: Tự bơi hay nương bóng?
3 trang 385 0 0 -
Những mẹo mực để trở thành người bán hàng xuất sắc
6 trang 351 0 0 -
Báo cáo Phân tích thiết kế hệ thống - Quản lý khách sạn
26 trang 337 0 0 -
98 trang 324 0 0
-
115 trang 320 0 0
-
146 trang 318 0 0
-
Chương 2 : Các công việc chuẩn bị
30 trang 309 0 0 -
BÀI THU HOẠCH QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VÀ QUẢN LÍ GIÁO DỤC
16 trang 307 0 0