Thông tin tài liệu:
Các họa phẩm của các nghệ sĩ Nga và Pháp, số lượng gần ngang nhau, đã được Nga cho mượn để trưng bày. Cuộc triển lãm nhan đề “Đến từ nước Nga” được tổ chức tại Viện Hàn lâm Hoàng gia Anh từ đầu năm cho tới trung tuần tháng 4 vừa qua trưng bày những tác phẩm được sáng tác vào thời kỳ 25 năm cuối thế kỷ 19 tới 25 năm đầu thế kỷ 20. Lúc đầu quảng cáo cho cuộc triển lãm chỉ tập trung vào các họa phẩm Pháp....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
CUỘC HẸN HÒ CỦA MỸ THUẬT NGA - PHÁP TẠI XỨ SỞ SƯƠNG MÙ
CUỘC HẸN HÒ CỦA MỸ
THUẬT NGA - PHÁP TẠI XỨ
SỞ SƯƠNG MÙ
Các họa phẩm của các nghệ sĩ Nga và Pháp, số
lượng gần ngang nhau, đã được Nga cho mượn để
trưng bày. Cuộc triển lãm nhan đề “Đến từ nước
Nga” được tổ chức tại Viện Hàn lâm Hoàng gia
Anh từ đầu năm cho tới trung tuần tháng 4 vừa
qua trưng bày những tác phẩm được sáng tác vào
thời kỳ 25 năm cuối thế kỷ 19 tới 25 năm đầu thế
kỷ 20. Lúc đầu quảng cáo cho cuộc triển lãm chỉ
tập trung vào các họa phẩm Pháp. Nhưng tôi thấy
ALEXANDER thực tế không phải như vậy, bởi vì chúng ta đã
SEROV - Chân quá quen với những tác phẩm của Cézanne,
dung Sophia Matisse, Picasso, và các họa sĩ ấn tượng chủ nghĩa
Botkin khác rồi, nhưng chúng ta lại chưa quen với các
sáng tác của các họa sĩ Nga. Các tác phẩm trừu
tượng và bức Chiếc vòng đen-trên-trắng của Kazimir Malevich - bức
này được treo trong căn phòng cuối như một dấu chấm hết và cũng
dường như để tuyên bố không những sự kết thúc cuộc trưng bày mà
còn cả sự cáo chung của phương pháp hội họa cổ xưa nữa - tất cả đều
nổi tiếng trong lịch sử mỹ thuật hiện đại ngang với họa phẩm Vũ điệu
của Henri Matis
Mà tôi cũng không cho rằng tác phẩm của các họa sĩ Pháp là tuyệt hơn.
Cái lợi thế trong việc đề cao các tác phẩm Pháp có được ít nhất một
phần là do sự tích đi kèm với những tác phẩm đó.
Các nhà sưu tầm Nga - đặc biệt là Sergei Ivanovich Shchukin và Ivan
Morozov, và cả những người khác nữa - đã cảm nhận được ngọn triều
dâng hồi đầu thế kỷ trước và đã nắm bắt được thời cơ đó: không giống
như các nhà sưu tầm khác, họ không hề chờ đợi theo đuôi phong trào.
Các bộ sưu tập của họ đã bị quốc hữu hóa sau Cách mạng (một số
người trước kia là chủ nhân các bộ sưu tập thì sau CM đã chuyển sang
làm hướng dẫn viên, giám tuyển mỹ thuật, thậm chí nhân viên soát vé
vào cửa). Về sau, việc buộc phải chuyển các tác phẩm ấy xuống các
tầng hầm của Bảo tàng và sau này sự phục hồi dần dần cuối cùng đi tới
thắng lợi của họ đã là một đoạn kết cho câu chuyện về các nhà sưu tầm:
sau thời kỳ nhục nhã là đến giai đoạn được vinh danh sau khi mất. Bản
thân các tác phẩm cũng trải qua 2 cuộc đời là những kiệt tác và “những
người tử vì đạo phục sinh” của mỹ thuật hiện đại.
Mặt khác việc trưng bày bố trí các họa phẩm Nga và Pháp bên cạnh
nhau cho thấy chủ nghĩa hiện đại Nga đặc sắc biết chừng nào liên quan
tới nền mỹ thuật mới được tiếp nhận từ bên ngoài vào và những truyền
thống mà nó đã đoạn tuyệt. Một số nghệ sĩ Nga đã nỗ lực không ngừng
sáng tác như biết bao người khác. Trong bức Chân dung Sophia
Botkina do Valentin Serov vẽ năm 1899, cách xử lý có thoáng hơn, tự
do hơn bức Chân dung Nadezhda Polotsova mà Carolus Duran được
mời sang vẽ trước đó 20 năm có lẻ. Nhưng đây chủ yếu là một ví dụ về
một loại hình hội họa quốc tế, chân dung xã hội được thực hiện trong
kỳ thoái trào nhưng vẫn kiêu kỳ, vẫn chói ngời và đầy tin tưởng.
Chuyển sang tranh phong cảnh ta sẽ thấy tình hình có hơi khác một
chút. Tác phẩm Đôi bờ sông Loing của Charles-Francois Daubigny vẽ
vào cuối những năm 1860, là một bản ghi chép bầu không khí thuần
khiết của những cánh đồng bằng phẳng, xanh tươi, rực rỡ ; 30 năm sau
đó, bức Buổi chiều Mùa hạ của Isaac Levitan là một họa phẩm nhìn
ngang tương tự miêu tả những hàng cây phía xa rực sáng ảm đạm hơn
... Bóng chiều đổ ập xuống mọi vật. Một bóng người trải dài trên đường
ở tiền cảnh, ớn lạnh hơn. Ta thấy tác phẩm của Daubigny miêu tả một
địa điểm, còn họa phẩm của Levitan rõ ràng toát lên một tâm trạng. Vẽ
tranh phong cảnh ở Nga đã trở thành một phương tiện để thể hiện niềm
tự hào dân tộc và cách tự vấn dân tộc. Trong một bài luận văn in trong
cuốn vựng tập của Viện Hàn Lâm Hoàng gia Anh, Yevgenia Petrova có
nói rằng “sự tôn vinh trân trọng đối với mỹ thuật là một cái gì đó rất
đặc thù, đậm chất riêng của tâm lý người Nga” và phỏng đoán rằng các
loại hình mỹ thuật đã thế chân các diễn đàn và các cuộc tranh luận tại
các thính phòng vào thời điểm chưa có kênh nào tồn tại dành cho các
cuộc trao đổi ý kiến công khai cả. Việc từ bỏ những chủ đề lớn lao đã
làm rầu lòng các bậc cựu trào và công chúng ở khắp nơi. ở nước Nga
nơi mỹ thuật đi sâu vào các chủ đề dân tộc, tôn giáo và xã hội thì sự
mất mát đó còn thể hiện mạnh mẽ hơn. Nó mạnh mẽ tới mức ta có thể
cảm thấy tâm trạng và các câu chuyện ngầm len lỏi trở lại vào sáng tác
của các họa sĩ, những người đã nhận đảm đương vị trí hướng đạo từ các
họa sĩ Pháp đương thời.
Chẳng hạn, họa phẩm Cánh đồng hoa Anh túc sáng tác năm 1890-1891
và Đống rơm tại Giverny vẽ năm 1888 của Claude Monet đều hoàn
toàn không chú ý tới bất cứ thứ gì khác ngoài ngoại hình các cảnh vật,
trên hết, là cái cách chất liệu sơn phát huy được hiệu quả ánh sáng bằng
cách làm mờ hì ...