Danh mục

Đặc điểm địa chất và khoáng sản của trầm tích màu đỏ Creta thượng trong trũng Yên Châu, Sơn La

Số trang: 12      Loại file: doc      Dung lượng: 514.00 KB      Lượt xem: 13      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Hệ tầng trầm tích lục địa màu đỏ Creta thượng khu vực Tây Bắc Bộ, Việt Nam nói riêng, và ở Đông Nam Á nói chung, có một vai trò quan trọng, một mặt đánh dấu một thời kỳ phát triển địa chất đặc biệt trong lịch sử hình thành vỏ Trái đất của khu vực, mặt khác chứa nguồn tài nguyên phi kim (thạch cao và muối mỏ) mà có nơi có ý nghĩa lớn trong công nghiệp. Trên cơ sở phân tích, tổng hợp các tài liệu đo vẽ địa chất và điều tra khoáng sản tỷ lệ 1:50.000 nhóm tờ Yên Châu, đồng thời...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đặc điểm địa chất và khoáng sản của trầm tích màu đỏ Creta thượng trong trũng Yên Châu, Sơn La ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT VÀ KHOÁNG SẢN CỦA TRẦM TÍCH MÀU ĐỎ CRETA THƯỢNG TRONG TRŨNG YÊN CHÂU, SƠN LA LÊ THANH HỰU, NGUYỄN PHÚ VỊNH, PHẠM VĂN ĐƯỜNG Liên đoàn Bản đồ Địa chất Miền Bắc, 208/10 Nguyễn Văn Cừ, Long Biên, Hà Nội Tóm tắt: Hệ tầng trầm tích lục địa màu đỏ Creta thượng khu vực Tây Bắc Bộ, Việt Nam nói riêng, và ở Đông Nam Á nói chung, có một vai trò quan trọng, một mặt đánh dấu một thời kỳ phát triển địa chất đặc biệt trong lịch sử hình thành vỏ Trái đất của khu vực, mặt khác chứa nguồn tài nguyên phi kim (thạch cao và muối mỏ) mà có nơi có ý nghĩa lớn trong công nghiệp. Trên cơ sở phân tích, tổng hợp các tài liệu đo vẽ địa chất và điều tra khoáng sản tỷ lệ 1:50.000 nhóm tờ Yên Châu, đồng thời đối sánh với các vùng phụ cận, bài báo trình bày những nét cơ bản về đặc điểm địa chất và khoáng sản (thạch cao) của các trầm tích màu đỏ trong bồn trũng Yên Châu, tỉnh Sơn La. I. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT TRẦM TÍCH MÀU ĐỎ CRETA THƯỢNG Ở TRŨNG YÊN CHÂU 1. Đặc điểm địa tầng Trong phạm vi đo vẽ địa chất và điều tra khoáng sản tỷ lệ 1:5 0.000 nhóm tờ Yên Châu, các trầm tích lục địa màu đỏ Creta thượng được xếp vào hệ tầng Yên Châu phân bố ở các vùng Chiềng Chăn, Chiềng Sài và Yên Châu với diện tích khoảng 200 km2, trong đó, vùng Yên Châu chiếm khoảng 150 km2 (Hình 1). Dưới đây, bài báo nêu những đặc điểm chủ yếu về cấu trúc địa chất và khoáng sản của các trầm tích màu đỏ phân bố ở trũng Yên Châu. Diện lộ của các trầm tích màu đỏ ở vùng Yên Châu dài gần 40 km, nơi hẹp nhất khoảng 1 km, chỗ rộng nhất gần 10 km, trung bình 5 km có dạng một trũng hẹp (bồn địa hào). Các tài liệu đo vẽ địa chất 1:50.000 cho thấy ở nhiều nơi các trầm tích này phủ không chỉnh hợp góc trên các thành tạo cổ hơn, do vậy hầu hết các thành tạo đó đều gửi các vật liệu của mình trong các tập cuội kết dày của hệ tầng này; về phía trên hệ tầng bị phủ bởi các trầm tích chứa đá phiến dầu màu xám đen tuổi Oligocen hệ tầng Sài Lương; có nơi lại có quan hệ tiếp xúc kiến tạo với đá vây quanh. Là trầm tích lục địa tướng sông-hồ, các tập trầm tích của hệ tầng Yên Châu thường không ổn định trong diện phân bố của chúng, các mặt cắt khác nhau theo đường phương cách nhau không xa (trên cùng một dải) đều có những nét riêng. Sự khác biệt đó phụ thuộc vào mức độ phức tạp của các yếu tố địa phương như: địa hình, nguồn cung cấp vật liệu và tính chất của sông, hồ cổ. Qua liên hệ các mặt cắt trong vùng (Hình 2), hệ tầng được chia thành 2 phần: - Phần dưới: đặc trưng bởi các trầm tích lục địa vụn thô, phân bố ở hai phía TN và ĐB của bồn trũng, trong đó ở phía TN phần này lộ ra khá đầy đủ, còn phía ĐB thường bị đứt gãy cắt xén. Lót đáy phần dưới của hệ tầng thường không đồng nhất ở các vị trí khác nhau, có nơi là dăm- cuội-tảng kết, thành phần hạt là đá vôi hạt mịn màu trắng xám, một số ít màu xám đen, kích thước rất khác nhau từ 5-7 đến 15-20 cm, cá biệt 78- 80 cm, với nhiều hình dạng khác nhau, ít hoặc không bị mài tròn; có nơi là cuội kết đa khoáng, thành phần cuội gồm thạch anh, đá phun trào (mafic, axit-kiềm), cát kết dạng quarzit, silic, đá vôi, … kích thước từ 2-3 đến 5-7 cm, cá biệt 10-15 cm tương đối tròn cạnh. Nhìn chung, thành phần dăm-cuội-tảng chiếm 60-70 % khối lượng của đá và được gắn kết bởi xi măng cát kết, bột kết, sạn kết màu nâu đỏ, cấu trúc hỗn độn (Ảnh 1.1, 1.2); chuyển lên trên là các lớp cát kết, bột kết, sạn kết và ít lớp mỏng sét-bột kết giàu vôi, đôi nơi xen kẹp thấu kính mỏng cuội sạn kết; đá phân lớp 15-20 cm, có nơi gặp cấu tạo phân lớp xiên đơn giản. Trong bột kết đã thu thập được hoá thạch Hai mảnh vỏ nước lợ (Fulpioides sp.) tuổi Creta muộn; chuyển lên trên chủ yếu là cuội kết đa khoáng, phân lớp không đều, có nơi dày 15-30 cm, có nơi dày 1 m, nhưng có nơi dày tới 5-6 m, hoặc không rõ lớp; chúng không duy trì liên tục theo đường phương, thường có dạng thấu kính hoặc cài răng lược; ở trên cùng gặp cát kết, cát bột kết, bột kết màu nâu đỏ, phân lớp 20-25 đến 30-40 cm, đôi nơi thấy xen thấu kính mỏng cát kết chứa sạn sỏi và cuội hạt nhỏ, mật độ thưa. Chiều dày phần dưới: 140-760 m. - Phần trên: chiếm khoảng 50 % khối lượng của hệ tầng, đặc trưng bởi trầm tích hạt mịn, thành phần gồm bột kết, sét bột kết, cát bột kết, cát kết hạt nhỏ đến mịn xen ít lớp sét bột kết vôi; đá có màu đỏ, nâu tím, phân lớp từ 15-20 đến 35-40 cm, Bản ảnh 1 Bản ảnh 2 thường có cấu tạo dải mờ song song, một số nơi có cấu tạo gợn sóng hoặc phân lớp xiên đơn giản; đá có thế nằm thoải 5-15°; một số nơi gặp xen thấu kính mỏng sạn kết, cát kết chứa cuội sỏi. Cát kết, bột kết chứa hoá thạch thực vật hạt kín (Angiospermae) (Ảnh 2.1, 2.2, 2.3) và Chân bụng nước ngọt (Helix sp.) (Ảnh 2.4) tuổi Creta muộn. Đặc biệt trong các lớp đá của phần ...

Tài liệu được xem nhiều: