Danh mục

Đặc điểm kinh tế nông nghiệp các huyện đồng bằng tỉnh Quảng Nam (1997 - 2017)

Số trang: 10      Loại file: pdf      Dung lượng: 275.27 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Mục tiêu nghiên cứu của bài viết là đưa ra các kiến nghị và bài học lịch sử, kết hợp với những chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp của Trung ương, của tỉnh nhằm thúc đẩy quá trình hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đặc điểm kinh tế nông nghiệp các huyện đồng bằng tỉnh Quảng Nam (1997 - 2017) ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ NÔNG NGHIỆP CÁC HUYỆN ĐỒNG BẰNG TỈNH QUẢNG NAM (1997 - 2017) Nguyễn Văn Thi1, Vũ Thị Phương Anh2 Tóm tắt: Các huyện đồng bằng của tỉnh Quảng Nam hiện nay 07 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 02 thành phố Hội An và Tam Kỳ, thị xã Điện Bàn và 06 huyện Đại Lộc, Duy Xuyên, Quế Sơn, Thăng Bình, Phú Ninh, Núi Thành. Có 141 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc (trong đó, có 25 phường, 06 thị trấn và 112 xã) với dân số là 951.484 người [1, tr. 27]. Tổng diện tích tự nhiên của các huyện đồng bằng 274.283,2 héc ta, diện tích đất nông nghiệp chiếm 198.894,7 héc ta, diện tích đất phi nông nghiệp chiếm 67.180,6 héc ta và diện tích đất chưa sử dụng chiếm 8.290 héc ta [15, tr. 6]. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, kinh tế nông nghiệp các huyện đồng bằng có vị trí, vai trò quan trọng trong nền nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam. Thực tiễn quá trình phát triển của kinh tế nông nghiệp các huyện đồng bằng tỉnh Quảng Nam trong 20 năm (1997 - 2017) cho thấy những điều kiện thuận lợi, cũng như khó khăn, thách thức và bài học kinh nghiệm trong quá tình lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế nông nghiệp của từng địa phương. Bằng phương pháp sử học, tổng hợp, phân tích số liệu, nghiên cứu và đánh giá để rút ra những đặc điểm kinh tế nông nghiệp các huyện đồng bằng (1997-2017); trên cơ sở đó, đưa ra các kiến nghị và bài học lịch sử, kết hợp với những chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp của Trung ương, của tỉnh nhằm thúc đẩy quá trình hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Từ khóa: Kinh tế nông nghiệp; Các huyện đồng bằng; Quảng Nam; Phát triển nông nghiệp. 1. Đặt vấn đ Các huyện đồng bằng tỉnh Quảng Nam có nền kinh tế nông nghiệp được hình thành từ rất sớm. Sau khi tỉnh (1997), hoạt động sản xuất nông nghiệp các huyện đồng bằng bên cạnh những thuận lợi và thời cơ còn có những khó khăn, thách thức trong tình hình mới. Thời k buổi đầu chia tách tỉnh, trình độ và năng lực sản xuất hạn chế, cơ sở hạ tầng, phương tiện kỹ thuật chưa được đầu tư... Trong quá trình xây dựng và phát triển, thông qua việc thực hiện hiệu quả các chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế nông nghiệp của Trung ương, của tỉnh và việc phát huy những thế mạnh của địa phương, kinh tế nông nghiệp các huyện đồng bằng tỉnh Quảng Nam giai đoạn 1997 - 2017 đã có những chuyển biến rõ nét, khẳng định vai trò, vị trí và những đóng góp quan trọng đối với nền sản xuất nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam. Tuy nhiên, quá trình phát triển của kinh tế nông nghiệp vẫn còn bộc lộ những hạn chế, khiếm khuyết nhất định, điều này thể hiện ở việc hoạch định chính sách, cũng như quá trình triển khai thực hiện. Chính vì 1 ThS., Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Nam 2 PGS.TS., Trường Cao đẳng Quảng Nam 101 ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ NÔNG NGHIỆP CÁC HUYỆN ĐỒNG BẰNG... vậy, việc nghiên cứu đề tài nhằm tìm ra những đặc điểm của quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp các huyện đồng bằng giai đoạn 1997-2017, góp phần hoạch định đường lối, chính sách và chỉ đạo phát triển kinh tế nông nghiệp các huyện đồng bằng tỉnh Quảng Nam những năm tiếp theo. Nghiên cứu đề tài này, tác giả đứng trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp với việc sử dụng hai phương pháp nghiên cứu chủ đạo của khoa học lịch sử là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic. Ngoài ra, tác giả còn vận dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, điền dã... rút ra những thông tin có giá trị cần thiết nhất phục vụ quá trình nghiên cứu đề tài. 2. Đặc đi m 2.1. Chuy n dịch cơ cấu trong sản xuất nông nghiệp diễn ra chậm Trước những năm chia tác tỉnh (1997), kinh tế nông nghiệp các huyện đồng bằng chủ yếu là nền sản xuất lương thực tự cung, tự cấp; cây lúa giữ vai trò chủ đạo với diện tích lớn với 82.234/87.837 héc ta [3, tr. 93-94], chiếm 93,62% tổng diện tích sản xuất lương thực, song vẫn không đảm bảo được vấn đề lương thực của người dân. Nguyên nhân chính là do trình độ sản xuất còn lạc hậu, yếu kém, phương thức sản xuất nhỏ l , manh mún; chưa có sự phát triển của khoa học, công nghệ để áp dụng trong sản xuất nông nghiệp; công tác quản lý, điều hành của các cấp chính quyền cũng như việc triển khai các chủ trương, chính sách về phát triển nông nghiệp chưa được quan tâm đúng mức. Sau khi chia tách tỉnh, nền sản xuất nông nghiệp các huyện đồng bằng từng bước được quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật và nguồn vốn phục vụ sản xuất. Trên cơ sở Quyết định số 33/2011/QĐ-UBND, ngày 17/11/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam về quy định cơ chế hỗ trợ đẩy mạnh cơ giới hoá một số khâu trong sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, giai đoạn 2011-2015 trong năm 2012 [14], các ngành chức năng và chính quyền các địa phương, gồm Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên, Quế Sơn, Núi Thành, Phú Ninh, Thăng Bình, Hội An, Tam K đã giải ngân 6 tỷ đồng hỗ trợ cho các hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ nông dân mua 93 máy cày 4 bánh, 72 máy gặt đập liên hợp, 3 máy sấy, để phục vụ việc làm đất, thu hoạch, sơ chế biến các loại nông sản, nhất là sản phẩm lúa [12, tr. 4]. Nhờ đó, nông nghiệp các huyện đồng bằng đã có những chuyển biến tích cực, giá trị sản xuất không ngừng được cải thiện qua từng năm, góp phần nâng cao đời sống của người nông dân. 2.1.1. Giai đoạn 1997 - 2006 Từ một nền sản xuất lạc hậu, yếu kém, nông nghiệp các huyện đồng bằng tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn 1997 - 2006 đã từng bước chuyển đổi cơ cấu cây trồng, con vật nuôi, phát triển đồng bộ trên các lĩnh vực của nền sản xuất nông nghiệp. Trên lĩnh vực trồng trọt, diện tích trồng lúa (thống kê theo 2-3 vụ trồng) giảm do sự tác động của chủ trương chuyển từ sản xuất 3 vụ sang 2 vụ lúa/năm, thay vào đó là các loại cây trồng có năng suất cao được triển khai ở những diện tích ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: