Danh mục

ĐẠI CƯƠNG KHÁNG THỂ

Số trang: 19      Loại file: pdf      Dung lượng: 217.16 KB      Lượt xem: 4      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 10,000 VND Tải xuống file đầy đủ (19 trang) 0

Báo xấu

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Một trong những thông báo thực nghiệm đầu tiên về đáp ứng miễn dịch thu được là sự trình bày về miễn dịch dịch thể chống lại độc tố vi khuẩn. Vào những năm đầu của thập kỷ 1900, bệnh nhân bị nhiễm trùng bạch hầu có thể bị nguy hiểm tính mạng nhưng có thể điều trị được bằng cách tiêm huyết thanh của những ngựa được gây miễn dịch với độc tố bạch hầu. Thể dạng miễn dịch này được gọi là miễn dịch dịch thể và được trung gian bởi một họ glycoprotein có tên là...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
ĐẠI CƯƠNG KHÁNG THỂ KHÁNG THỂ Một trong những thông báo thực nghiệm đầu tiên về đáp ứng miễn dịch thuđược là sự trình bày về miễn dịch dịch thể chống lại độc tố vi khuẩn. Vào nhữngnăm đầu của thập kỷ 1900, bệnh nhân bị nhiễm trùng bạch hầu có thể bị nguyhiểm tính mạng nhưng có thể điều trị được bằng cách tiêm huyết thanh của nhữngngựa được gây miễn dịch với độc tố bạch hầu. Thể dạng miễn dịch này được gọi làmiễn dịch dịch thể và được trung gian bởi một họ glycoprotein có tên là kháng thể.Kháng thể, phân tử MHC (phức hệ hoà hợp mô chủ yếu), và thụ thể kháng nguyêncủa tế bào T là ba loại phân tử tham gia vào việc nhận diện kháng nguyên trongmiễn dịch thu được. Trong ba loại phân tử này thì kháng thể liên kết với nhiều cấutrúc kháng nguyên nhất, có khả năng tốt nhất trong việc phân biệt các khángnguyên khác nhau, và liên kết với kháng nguyên với lực mạnh nhất. Kháng thểcũng là phân tử được nghiên cứu nhiều nhất trong ba phân tử liên kết khángnguyên này. 3.1. Phân bố tự nhiên và sản xuất kháng thể Kháng thể được phân bố trong các dịch sinh học ở khắp cơ thể và được tìmthấy trên bề mặt một số tế bào. Lymphô bào B là tế bào duy nhất sinh tổng hợpđược phân tử kháng thể. Trong tế bào B, kháng thể hiện diện trong các bộ phậnliên kết với mang trong bào tương (như hệ lưới nội bào và hệ Golgi) và trên bềmặt tế bào nơi mà chúng được xem như là một protein màng. Dạng tiết của khángthể hiện diện trong huyết t ương, dịch niêm mạc, và dịch gian bào của các mô.Kháng thể do tế bào B tổng hợp và sản xuất sẽ gắn lên bề mặt của một số tế bàohiệu quả miễn dịch như thực bào đơn nhân, tế bào NK (giết tự nhiên), và dưỡngbào là những tế bào có thụ thể đặc hiệu dành cho phân tử kháng thể. Khi máu hay huyết tương tạo thành cục đông, kháng thể nằm trong khối dịchcòn lại gọi là huyết thanh. Huyết thanh có chứa kháng thể chống lại một khángnguyên nhất định nào đó được gọi là kháng huyết thanh. (Do đó, những nghiêncứu về kháng thể và tương tác của nó với kháng nguyên được gọi một cách kinhđiển là huyết thanh học). Nồng độ của kháng thể trong huyết thanh chống lại mộtkháng nguyên đặc biệt nào đó thường được đo bằng cách tính xem đến độ phaloãng nào thì phản ứng giữa kháng nguyên và kháng thể không còn thấy được nữa.Độ pha loãng đó được gọi là hiệu giá kháng thể. Một người lớn khoẻ mạnh nặng 70 kg sản xuất khoảng 3 g kháng thể mỗingày. Khoảng 2/3 trong số này là kháng thể có tên là IgA được sản xuất bởi tế bàoB trong thành ruột và đường hô hấp và sau đó chuyển vào lớp dịch niêm mạc củanhững nơi này. Một lượng lớn IgA đã được sản xuất chứng tỏ các cơ quan này cóbề mặt niêm mạc rất lớn. Sau khi tiếp xúc với một kháng nguyên nào đó, đáp ứngtạo kháng thể ban đầu đa số xảy ra ở các mô lymphô, chủ yếu l à lách, hạch bạchhuyết và mô lymphô niêm mạc; nhưng những tế bào tạo ra kháng thể lâu dài thì cóthể nằm ở các mô khác, nhất là ở tủy xương. Những kháng thể đã đi vào tuần hoànthì có thời gian nửa đời sống rất ngắn. Loại kháng thể có nhiều nhất trong huyếtthanh là IgG chỉ có thời gian nửa đời sống là 3 tuần. 3.2. Cấu trúc phân tử của kháng thể Các nghiên cứu trước đây về kháng thể chủ yếu là lấy kháng thể từ máu cáccá thể được gây miễn dịch rồi sau đó tinh chế để khảo sát. Nhưng cách này thìkhông thể dùng để xác định cấu trúc của kháng thể một cách chính xác, bởi vìhuyết thanh chứa quá nhiều loại kháng thể được sản xuất bởi nhiều clôn tế bào Bđáp ứng với nhiều quyết định kháng nguyên (epitốp) khác nhau (và được gọi làkháng thể đa clôn). Có hai phát hiện đột phá đã tạo điều kiện để có thể kháo sátcấu trúc kháng thể một cách chính xác. Phát hiện thứ nhất là bệnh nhân đa u tủy cómột khối u tương bào tiết ra kháng thể đơn clôn với lượng đủ lớn trong máu vànước tiểu để có thể xác định tính chất hóa sinh của chúng. Phát hiện thứ hai, quantrọng hơn, là kỹ thuật tạo ra kháng thể đơn clôn được Georges Kohler và CesarMilstein mô tả năm 1975. Họ đã tìm được cách làm cho tế bào sản xuất kháng thểbất tử bằng kỹ thuật tạo “u lai” (hybridoma); những u lai n ày cho phép sản xuấtkháng thể chống lại chỉ một tính đặc hiệu kháng nguyên đã định trước. Việc tạo rađược quần thể tế bào sản xuất kháng thể thuần nhất này đã giúp cho các nhànghiên cứu xác định được trình tự acid amin của từng phân tử kháng thể. 3.2.1. Đặc điểm chung của cấu trúc kháng thể Các glycoprotein huyết tương hoặc huyết thanh trước đây thường được phânchia theo tính chất hòa tan của chúng thành albumin và globulin và phân chia sâuhơn dựa theo tính điện di của chúng. Hầu hết kháng thể đ ược tìm thấy trong thànhphần điện di nhanh thứ ba của globulin và được gọi là gamma globulin (gamma làchữ cái thứ ba trong mẫu tự Hy Lạp). Một t ên thường gọi nữa của kháng thể làimmunoglobulin (globulin miễn dịch), viết tắt là Ig. Trong quyển sách này haithuật ngữ immunoglobulin ...

Tài liệu được xem nhiều: