Danh mục

Đánh giá hiệu quả của gây tê ngoài màng cứng để giảm đau trong phẫu thuật đường tiêu hóa

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 273.89 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Gây tê ngoài màng cứng cho phép kiểm soát đau liên tục và có ưu điểm hơn giảm đau bằng morphine tĩnh mạch. Nghiên cứu thực hiện với mục tiêu so sánh hiệu quả giảm đau của gây tê ngoài màng cứngliên tục với chuẩn độ morphine tĩnh mạch trong phẫu thuật đường tiêu hóa.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đánh giá hiệu quả của gây tê ngoài màng cứng để giảm đau trong phẫu thuật đường tiêu hóaY Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015Nghiên cứu Y họcĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA GÂY TÊ NGOÀI MÀNG CỨNGĐỂ GIẢM ĐAU TRONG PHẪU THUẬT ĐƯỜNG TIÊU HÓABùi Ngọc Đức*, Nguyễn Thị Thanh**, Nguyễn Thị Phương Dung**, Phan Tôn Ngọc Vũ***TÓMTẮTMở đầu: Gây tê ngoài màng cứng cho phép kiểm soát đau liên tục và có ưu điểm hơn giảm đau bằngmorphine tĩnh mạch. Nghiên cứu thực hiện với mục tiêu so sánh hiệu quả giảm đau của gây tê ngoài màng cứngliên tục với chuẩn độ morphine tĩnh mạch trong phẫu thuật đường tiêu hóa.Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng có nhóm đối chứng. 65 bệnh nhân (BN) cóASA I, II và III với độ tuổi 18 – 65 được phân ngẫu nhiên thành hai nhóm: Nhóm E (34 BN) được gây tê ngoàimàng cứng, tiêm 50 μg fentanyl và 5 ml bupivacaine 0,5% trước lúc rạch da, sau đó truyền liên tục bupivacaineđơn thuần 0,125%, điều chỉnh tốc độ truyền sau mổ để kiểm soát được đau. Nhóm M (31 BN) giảm đau sau mổbằng chuẩn độ morphine tĩnh mạch 2 – 3 mg. Theo dõi đau bằng VAS lúc nghĩ và lúc ho, tác dụng phụ, liềuthuốc fentanyl trong mổ và morphine sau mổ trong 24 giờ sau mổ.Kết quả: Điểm đau (VAS) trung bình thấp hơn có ý nghĩa với nhóm E ở mọi thời điểm. Tổng liều fentanylsử dụng trong mổ 201,5 μg ở nhóm E và 303,2 μg ở nhóm M (p < 0,001). Tổng liều morphine sau mổ 0,97 mg ởnhóm E và 31,5 mg ở nhóm M (p < 0,001). Tỉ lệ buồn nôn và nôn sau mổ 24% ở nhóm E và 32% ở nhóm M (p >0,05), ngứa 12% và 10% tướng ứng với nhóm E và nhóm M (p > 0,05).Kết luận: Giảm đau ngoài màng cứng với bupivacaine 0,125% có chất lượng giảm đau tốt hơn giảm đaubằng chuẩn độ morphine tĩnh mạch trong phẫu thuật đường tiêu hóa.Từ khóa: Gây tê ngoài màng cứng, phẫu thuật đường tiêu hóa, bupivacaine 0,125%, morphine tĩnh mạch.ABTRACTEPIDURAL ANALGESIA IN MAJOR ABDOMINAL SURGERYBui Ngoc Duc, Nguyen Thi Thanh , Nguyen Thi Phuong Dung,Phan Ton Ngoc Vu* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 419 - 423Background: Perioperative epidural analgesia provides continuous pain control and may have advantagesover intravenous morphine administration. This study compared the quality of pain relief between perioperativecontinuous epidural infusion and intravenous morphine titration in patient undergoing major abdominalsurgery.Patients and Methods: 65 patients with ASA class I, II and III aged between 18 - 65 years voluntarilyparticipated in this randomized control trial. The patients were randomly divided into two groups: Group E (35patients) received epidural analgesia with 50 μg fentanyl and 5 ml bupivacaine 0.5% before incision, followingcontinuous infused with bupivacaine 0,125% alone, the infusion rate was titrated for analgesia. Group Mreceived 2 – 3 mg intravenous morphine titration in postoperation. Visual analogue scales (VAS) at rest and oncoughing, side effects, doses of opioids were recorded for 24 hr after surgery.Results: Mean pain scores were significantly lower in the epidural group at most time points. The meanintraoperative dose of fentanyl was 201.5 μg in the group E, and 303.2 μg in the group M (p 0.05).Conclusions: Epidural analgesia with bupivacaine 0.125% delivers better analgesia compared withintravenous morphine titration in patients undergoing major abdominal surgery.Key word: Epidural analgesia, major abdominal surgery, bupivacaine 0.125%, intravenous morphinethùy gan, dạ dày, đại tràng, đầu tụy, đuôi tụy,ĐẶT VẤNĐỀmổ mở hoặc nội soi có ASA I, II, III, tuổi 18 – 65Giảm đau ngoài màng cứng (NMC) là mộtvà đồng ý tham gia nghiên cứu. Trong thời giankỹ thuật tốt để điều trị đau sau mổ trong nhiềutừ 08 - 2013 đến 05 - 2014 tại Bệnh viện Đại học Ythập niên qua. Giảm đau NMC được xem là tiêuDược TP. Hồ Chí Minh.chuẩn vàng trong điều trị đau cấp tính sau cácTiêu chuẩn loại trừphẫu thuật lớn[2,5].Bệnh nhân có tiền sử dị ứng thuốc tê hoặcNhững lợi ích của gây tê NMC được xácthuốc nhóm á phiện, rối loạn đông máu, nghiệnđịnh khi sử dụng cho BN phẫu thuật bụng. Sauthuốc morphine, nhiễm trùng nặng, rối loạnnhiều loại phẫu thuật vùng bụng khác nhau,nặng nước và điện giải, suy gan hoặc suy thậnhiệu quả giảm đau tốt hơn nhưng tỉ lệ ngứa thìgiai đoạn cuối, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tínhnhiều hơn ở nhóm NMC hơn PCA với nhómnặng và phụ nữ có thai.morphine(8,9).Có thể sử dụng thuốc tê đơn thuần để truyềnliên tục vào khoang NMC, nhưng hiệu quảkhông bằng phối hợp thuốc tê với opioid.Truyền thuốc tê đơn thuần vào khoang NMC cóthể đem lại hiệu quả giảm đau sau mổ và đồngthời tránh được tác dụng phụ của opioid.Phương pháp kiểm soát đau qua đường NMCđã chứng tỏ là phương pháp giảm đau hiệu quảgiúp bệnh nhân mau hồi phục, giảm bớt lượngthuốc sử dụng, giảm thời gian chăm sóc của điềudưỡng… nhất là sau các phẩu thuật lớn(3,7).Trong nhiều năm qua, phẫu thuật ổ bụng,phẫu thuật chi dưới, đã áp dụng phương phápgây tê ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: