Danh mục

Đánh giá hiệu quả giảm đau của kỹ thuật gây tê mặt phẳng cơ dựng sống sau phẫu thuật nội soi lồng ngực cắt thùy phổi

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 1.55 MB      Lượt xem: 1      Lượt tải: 0    
Jamona

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (7 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết trình bày kỹ thuật gây tê mặt phẳng cơ dựng sống là kỹ thuật mới được mô tả lần đầu vào năm 2016. Trong những năm gần đầy các nghiên cứu bước đầu cho thấy kỹ thuật này có hiệu quả giảm đau cho phẫu thuật lồng ngực. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với mục tiêu chính là so sánh lượng fentanyl tiêu thụ trong 24 giờ đầu sau phẫu thuật nội soi cắt thùy phổi ở nhóm can thiệp được gây tê mặt phẳng cơ dựng sống so với nhóm chứng, mục tiêu phụ là so sánh điểm đau theo thang điểm nhìn đồng dạng khi nghỉ, khi ho ở hai nhóm.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đánh giá hiệu quả giảm đau của kỹ thuật gây tê mặt phẳng cơ dựng sống sau phẫu thuật nội soi lồng ngực cắt thùy phổi Nghiên cứu Y học Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh; 27(4):170-176 ISSN: 1859-1779 https://doi.org/10.32895/hcjm.m.2024.04.23Đánh giá hiệu quả giảm đau của kỹ thuật gâytê mặt phẳng cơ dựng sống sau phẫu thuật nộisoi lồng ngực cắt thùy phổiTôn Nữ Bảo Trân1,*, Lê Hồng Chính1, Lê Thị Thiên Nga1, Huỳnh Trung Thảo Nguyên1,Nguyễn Thị Nghi1, Lê Thị Tuyết Vân11 Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt NamTóm tắtĐặt vấn đề: Kỹ thuật gây tê mặt phẳng cơ dựng sống là kỹ thuật mới được mô tả lần đầu vào năm 2016. Trong nhữngnăm gần đầy các nghiên cứu bước đầu cho thấy kỹ thuật này có hiệu quả giảm đau cho phẫu thuật lồng ngực. Chúngtôi thực hiện nghiên cứu này với mục tiêu chính là so sánh lượng fentanyl tiêu thụ trong 24 giờ đầu sau phẫu thuật nộisoi cắt thùy phổi ở nhóm can thiệp được gây tê mặt phẳng cơ dựng sống so với nhóm chứng, mục tiêu phụ là so sánhđiểm đau theo thang điểm nhìn đồng dạng khi nghỉ, khi ho ở hai nhóm.Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu thử nghiệm ngẫu nhiên có nhóm chứng thực hiện tại bệnh viện Đạihọc Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh cơ sở 1 từ tháng 1 năm 2022 đến tháng 8 năm 2024.Kết quả: Nghiên cứu thực hiện trên 38 người bệnh trải qua phẫu thuật nội soi lồng ngực cắt thùy phổi được phân ngẫunhiên vào 2 nhóm. Lượng fentanyl tiêu thụ trong 24 giờ đầu sau phẫu thuật ở nhóm can thiệp thấp hơn so với nhómchứng và lần lượt là 106,3 ± 29,5 và 347,9 ± 75,1 có ý nghĩa thống kê (p Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 27 * Số 4 * 2024AbstractEVALUATION OF ANALGESIC EFFICACY OF ERECTOR SPINAE PLANEBLOCK AFTER VIDEO-ASSISTED THORACIC SURGERY LOBECTOMYTon Nu Bao Tran, Le Hong Chinh, Le Thi Thien Nga, Huynh Trung Thao Nguyen,Nguyen Thi Nghi, Le Thi Tuyet VanObjectives: Erector spinae plane block technique was first described in 2016. Recently, many studies have providedsome evidences of analgesic efficacy of erector spinae plane block after thoracic surgery. The primary outcome of ourstudy is to compare total fentanyl consumption between intervened group and control group 24 hour after video-assisted thoracic surgery lobectomy. The secondary outcome is to compare the Visual Analogue Scale scores at restand during coughing.Methods: Randomized control trial conducted in the University Medical Center in Ho Chi Minh City from January 2022to August 2024.Results: Thirty eight patients who underwent video- assisted thoracic surgery lobectomy were randomly allocated intoerector spinae plane block group and control group. Total amount of fentanyl consumed in the first 24 hours by erectorspinae plane block group was statistically lower than that consumed by control group, 106,3 ± 29,5 mcg and 347,9 ±75,1 respectively (p-value Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh * Tập 27 * Số 4 * 2024năng làm giảm 50% tổng lượng fentanyl tiêu thụ trong 24 giờ Khi kết thúc phẫu thuật, nhóm can thiệp sẽ được gây tê mặtđầu sau phẫu thuật. Mục tiêu nghiên cứu chính là so sánh lượng phẳng cơ dựng sống dưới hướng dẫn siêu âm và nhóm chứngfentanyl tiêu thụ trong 24 giờ đầu sau phẫu thuật nội soi lồng không được gây tê mặt phẳng cơ dựng sống. Kỹ thuật gây têngực cắt thùy phổi ở nhóm can thiệp được gây tê mặt phẳng cơ được thực hiện dưới hướng dẫn siêu âm, sử dụng kim têdựng sống và nhóm chứng. Bên cạnh đó mục tiêu nghiên cứu sonoblock 100mm, đi kim dưới hướng dẫn siêu âm vào mătphụ là so sánh điểm đau VAS khi nghỉ và khi ho. phẳng giữa cân cơ dựng sống và mỏm ngang mức T5, sao cho đầu kim tê tiếp xúc mỏm ngang, tiêm 2-3ml dung dịch Natri clorua 0,9%, nếu có dấu hiệu phập phồng của cân cơ dựng2. ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP sống và lan của dung dịch Natri clorid 0,9% thì xác định đúng NGHIÊN CỨU mặt phẳng sau đó rút ngược kiểm tra không máu và tiêm ropivacaine 0,25% 5ml , lặp lại tuần tự sau tiêm mỗi 5ml đến2.1. Đối tượng nghiên cứu khi tiêm hết 20ml ropivacaine 0,25%. Kỹ thuật gây tê mặt Người bệnh được chỉ định phẫu thuật chương trình phẫu phẳng cơ dựng sống được thực hiện bởi bác sĩ gây mê thamthuật nội soi lồng ngực cắt thùy phổi tại bệnh viện Đại học Y gia nghiên cứu có chứng chỉ hành nghề gây mê hồi sức, cóDược Thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) cơ sở 1 từ tháng 01 chứng chỉ đào tạo gây tê vùng dưới hướng dẫn siêu âm vànăm 2022 đến tháng 8 năm 2024. chứng chỉ đào tạo kỹ thuật gây tê mặt phẳng cơ dựng sống (Hình 1).2.1.1. Tiêu chuẩn chọn Tất cả người bệnh từ 18-75 tuổi có khả năng hợp tác hiểuvà sử dụng được PCA và trải qua phẫu thuật nội soi lồng ngựccắt thùy phổi2.1.2. Tiêu chuẩn loại Người bệnh được chuyển phương pháp phẫu thuật mở ngựccắt thùy phổi, người bệnh sử dụng thuốc gây nghiện hoặc đaumạn tính.2.2. Phương pháp nghiên cứu2.2.1. Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu thử nghiệm có nhóm chứng. Hình 1. Gây tê mặt phẳng cơ dựng sống dưới hướng dẫn siêu âm2.2.2. Cỡ mẫu thực hiện tại bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM Dựa trên kết quả nghiên cứu của tác giải Ciftci B [11], và Người bệnh trong hai nhóm đều được sử dụ ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: