Danh mục

Đánh giá In vitro vi kẽ trong phục hồi xoang loại II bằng Inlay composite

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 352.42 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nội dung bài viết được thực hiện nhằm đánh giá in vitro vi kẽ của phục hồi xoang loại II bằng ba phương pháp khác nhau. Mục tiêu: Thử nghiệm được thực hiện nhằm đánh giá in vitro vi kẽ của phục hồi xoang loại II bằng ba phương pháp khác nhau.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đánh giá In vitro vi kẽ trong phục hồi xoang loại II bằng Inlay compositeĐÁNH GIÁ IN VITRO VI KẼ TRONG PHỤC HỒI XOANGLOẠI II BẰNG INLAY COMPOSITETrần Thiện Mẫn, Hồ Xuân Anh NgọcKhoa Răng Hàm Mặt, Trường Đại học Y Dược HuếTóm tắtĐặt vấn đề: Việc khắc phục các trở ngại trong phục hồi xoang loại II, đặc biệt là tình trạng vi kẽ, làvấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá in vitro vikẽ của phục hồi xoang loại II bằng ba phương pháp khác nhau. Mục tiêu: Thử nghiệm được thực hiệnnhằm đánh giá in vitro vi kẽ của phục hồi xoang loại II bằng ba phương pháp khác nhau. Đối tượng vàphương pháp: Nghiên cứu thực nghiệm trong labo với ba nhóm và so sánh từng cặp. Ba mươi xoangloại II được sửa soạn trên các răng cối vĩnh viễn không sâu của người được chia thành 3 nhóm một cáchngẫu nhiên và được phục hồi theo 3 phương pháp khác nhau. Nhóm 1: Phục hồi bằng inlay composite(Tetric N-Ceram) với vật liệu dán là xi măng resin-modified glass ionomer hóa trùng hợp (Fuji Plus);nhóm 2: Phục hồi bằng inlay composite (Tetric N-Ceram) với vật liệu dán là composite độ quánh thấp(Tetric N-Flow); nhóm 3: Phục hồi trực tiếp bằng composite độ quánh cao Tetric N-Ceram. Trước khingâm phục hồi vào dung dịch xanh methylen 2% trong 12 giờ, tất cả các phục hồi được thực hiện chutrình nhiệt (100 chu kỳ, 50C – 550C). Mức độ thâm nhập chất màu dọc thành nướu được đánh giá theothang điểm từ 0 đến 3 khi quan sát dưới máy ảnh kỹ thuật số Nikon D7000 với độ phóng đại 40 lần. Kếtquả: Tất cả các loại phục hồi được đánh giá đều cho biểu hiện vi kẽ với các mức độ khác nhau. Khi sosánh giữa 3 phương pháp, nhóm 1 cho thấy mức độ vi kẽ cao hơn hẳn so với các nhóm còn lại, trong khiđó nhóm 2 và nhóm 3 không cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa. Kết luận: Việc sử dụng các vật liệu dánkhác nhau có ảnh hưởng khác nhau đến mức độ vi kẽ ở thành nướu của phục hồi xoang loại II.Từ khóa: inlay composite, xoang loại II, vi kẽ.AbstractMICROLEAKAGE OF CLASS II RESTORATION WITH COMPOSITE INLAYAN IN VITRO STUDYHo Xuan Anh Ngoc, Tran Thien ManFaculty of Odonto-Stomatology Hue University of Medicine and PharmacyBackground: Overcoming the obstacles of Class II restoration, especially the microleakage, is apolemic issue. The present study was performed to evaluate the microleakage of Class II restorationsusing three different techniques. Aims: The aim of this in vitro study was to evaluate the microleakageof Class II restorations using three different techniques. Materials and methods: The study was carriedout in the laboratory with paired comparision between groups. Thirty Class II cavities were preparedon extracted non-carious human permanent molars, randomly divided into 3 groups, which were thenrestored with 3 different methods. Group 1: indirect composite inlay (Tetric N-Ceram) cemented withresin-modified glass ionomer cement (Fuji Plus); Group 2 indirect composite inlay (Tetric N-Ceram)cemented flowable composite (Tetric N-flow); Group 3: direct composite restoration using TetricN-Ceram. Before immersed to 2% methylene blue solution for 12 hours, all restorations were subjectedto thermal cycling (100 cycles 50C – 55 0C). The extent of dye penetration along the gingival wall wasassessed using a grade scale from 0 to 3 under 40 times magnification using digital camera Nikon D7000.Results: All types of restorations showed some rate of microleakage. In comparing the three techniques,group 1 demonstrated the significantly higher rate of leakage compared to the others (p 0,05Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 30So sánh mức độ vi kẽ của 2 nhóm 2 và 3 cho thấy mức độ vi kẽ của nhóm 3 có xu hướng lớn hơnnhóm 2. Tuy nhiên, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p = 0,34 > 0,05.abcdHình 1. Các mức điểm thâm nhập phẩm màu: a. Điểm 0; b. Điểm 1; c. Điểm 2; d. Điểm 34. BÀN LUẬ NTất cả các nhóm nghiên cứu tương ứng với 3loại phục hồi đều cho kết quả có vi kẽ với các mứcđộ khác nhau. Kết quả này phù hợp với kết quảnghiên cứu của Browning và cs (1997): tất cả cácphục hồi bằng polymer đều có thể có vi kẽ giữa bềmặt mô răng và vật liệu phục hồi [7]. Kết quả nàytương tự với một số nghiên cứu khác [11], [14],[16]. Nguyên nhân của kết quả này có thể đượcgiải thích bởi sự co do trùng hợp của khối vật liệukhi đông cứng làm phá vỡ mối liên kết dán. Ngoàira, nghiên cứu của Gerdolle D. A. (2005) cũng chokết quả lực co của khối composite đủ sức tạo ra sựhở bờ và do đó đưa đến sự hình thành vi kẽ [12].Xi măng resin-modified glass ionomer (RMGIC)(Fuji Plus) có cơ chế đông cứng dựa vào phảnứng axit - base khác với composite [13]. Trongquá trình đông cứng này, sự co thể tích có thể xảyra trong quá trình trùng hợp của phản ứng giữa2-hydroxyethyl methacrylate (HEMA) and cácmonomer gốc urethane dimethacrylate [13], [14].Theo kết quả mức độ vi kẽ (Bảng 2 và 3) hiệuquả dán của RMGIC (Fuji Plus) thấp hơn hẳn sovới hai loại còn ...

Tài liệu được xem nhiều: