Danh mục

Đánh giá kết quả bước đầu gây tê đám rối thần kinh cánh tay để phẫu thuật tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 379.35 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Trong đề tài này nhằm nghiên cứu gây tê thần kinh cánh tay để phẫu thuật vùng cánh, cẳng hay bàn tay và giảm đau sau mổ. Nghiên cứu tiên hành thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên trên 10 bệnh nhân. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết để nắm rõ nội dung chi tiết.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đánh giá kết quả bước đầu gây tê đám rối thần kinh cánh tay để phẫu thuật tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013  Nghiên cứu Y học KIẾN THỨC – THÁI ĐỘ ‐ THỰC HÀNH VỀ VÀNG DA SƠ SINH   CỦA BÀ MẸ TẠI TP. HỒ CHÍ MINH  Phạm Diệp Thùy Dương*  TÓM TẮT  Tổng  quan:  Hiện  nay,  tại  Việt  Nam,  phần  lớn  trẻ  sơ  sinh  (SS)  nhập  viện  vì  vàng  da  (VD)  khi  đã  tăng  bilirubin gián tiếp nặng và nhiều trẻ cần thay máu. Nghiên cứu (NC) này tiến hành để xác định xem có phải vì  kiến thức (KT), thái độ (TĐ) và thực hành (TH) của bà mẹ (Bm) về VD SS chưa đúng không mà trẻ cần điều trị  được đưa đến khám quá muộn.  Mục tiêu: Xác định tỉ lệ Bm có KT, TĐ, TH đúng về vấn đề VD SS.  Phương pháp: NC cắt ngang mô tả  Kết quả: Chúng tôi thực hiện phỏng vấn 497 bà mẹ sinh con trong 14 ngày đầu hậu sản tại 22 bệnh viện  sản phụ khoa, nhi khoa, đa khoa công và tư nhân tại TP HCM. Kết quả cho thấy tỉ lệ KT, TĐ và TH đúng của  Bm về VD SS là rất thấp, về nguy cơ và tác hại của VD nặng chỉ là 5,4%, cách phát hiện, theo dõi và đánh giá  mức độ VD là 12,5%, cách xử lý VD là 41,2%. Bên cạnh đó, các Bm rất lo lắng cho sức khỏe của con mình và  lắng nghe ý kiến của nhân viên y tế cũng như thông tin từ các phương tiện truyền thông đại chúng.   Kết luận: NC của chúng tôi cho thấy tỉ lệ Bm có KT, TĐ hay TH về VD SS đúng đều thấp. Tuy nhiên, đại  đa số đều quan tâm đến sức khỏe của con mình, lắng nghe và làm theo lời khuyên của nhân viên y tế cũng như  thông tin từ các phương tiện truyền thông. Điều này cho thấy, để phòng ngừa bệnh lý não do bilirbin ở trẻ SS,  cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục Bm về VD SS thông qua nhân viên y tế sản nhi và  các phương tiện  truyền thông đại chúng.  Từ khóa: kiến thức; thái độ; thực hành; vàng da sơ sinh; bà mẹ  SUMMARY  KNOWLEDGE, ATTITUDE AND PRACTICE OF MOTHERS IN HO CHI MINH CITY ON NEONATAL  JAUDICE   Pham Diep Thuy Duong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 2 ‐ 2013: 69 ‐ 73  Background:  In  Vietnam  today  the  majority  of  newborns  hospitalized  for  jaundice  were  with  severe  hyperbilirubinemia and many of them required exchange transfusion. This study was carried out to determine  whether the knowledge, attitude and practice of mothers on neonatal jaundice is (correct/appropriate?) or not, so  that their jaundice newborns were taken for examination too late.  Objective: to determine the ratio of mothers who have (correct/appropriate) knowledge, attitude and practice  on neonatal jaundice  Methode: descriptive cross ‐ sectional study.   Results:  We  interviewed  497  mothers  who  gave  birth  in  the  first  14  days  postpartum  in  22  public  and  private hospitals of obstetrics and gynecology, pediatrics in HCMC. The results showed that the ratio of mothers  having (correct/appropriate) knowledge, attitude and practice on neonatal jaundice were very low: understanding  the risks and the dangers of severe jaundice was just 5.4%, knowing the method of detection, monitoring  and  assessment of the jaundice was 12.5%, having knowledge of jaundice treatment was 41.2%. Besides, the mothers  * Bộ môn Nhi – Đại học Y Dược Tp HCM  Tác giả liên lạc: ThS Phạm Diệp Thùy Dương Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản – Nhi Sơ Sinh ĐT: Email: : thuyduongpd@yahoo.com 69 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học  were very worried about their newborn’s health; they listened to the opinions of medical staff and information  from the media.  Conclusion: Our study showed that the ratio of mothers having (correct/appropriate) knowledge, attitude  and practice on neonatal jaundice were very low. However, the majority of mothers concerned about the health of  their newborns, listening and following the advice of health professionals as well as information from the media.  This  suggests  that,  to  prevent  bilirubin  encephalopathy  in  the  newborns,  it  is  necessary  to  strengthen  the  propagation and education for mothers about the neonatal jaundice through obstetric and pediatric staff and the  media.  Key words: knowledge; attitude; practice; neonatal jaundice; mother Tính theo công thức   ĐẶT VẤN ĐỀ  Hiện nay, tại Việt Nam, thời gian nằm viện  hậu sản là khoảng 2 ngày đối với sanh ngả dưới  và 4 ngày đối với sinh mổ, nên bilirubin thường  chỉ tăng lên đến điểm đỉnh khi trẻ đã xuất viện  hậu  sản  theo  mẹ.  Do  đó,  trẻ  đủ  tháng  hay  gần  đủ tháng “có vẻ khỏe mạnh” trở thành nhóm có  nguy  cơ  bị  bệnh  lý  não  do  bilirubin  nếu  việc  phát  hiện  và  theo  dõi  không  được  thực  hiện  đúng  mức.  Nghiên  cứu  (NC)  của  chúng  tôi  tại  bệnh viện Nhi Đồng II giai đoạn 2009‐2011(2) cho  thấy  trong  1262  trẻ  nhập  viện  vì  vàng  da  (VD)  tăng bilirubin gián tiếp, có 50,4% nhập viện khi  đã tăng bilirubin máu nặng và có 8,7% phải thay  máu. NC này tiến hành để xác định xem trẻ cần  điều trị được đưa đến khám quá muộn có phải  vì  kiến  thức  (KT) ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: