Đánh giá kết quả điều trị ngoại khoa ung thư thực quản tại Bệnh viện Chợ Rẫy trong 9 năm (1999-2007)
Số trang: 11
Loại file: pdf
Dung lượng: 332.85 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Công trình này nhằm đánh giá thực trạng của bệnh nhân ung thư thực quản đến viện, khả năng phẫu thuật, các loại phẫu thuật được tiến hành tại khoa ngoại lồng ngực Bệnh viện Chợ Rẫy và hiệu quả của các phương thức điều trị kết hợp của những năm gần đây.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đánh giá kết quả điều trị ngoại khoa ung thư thực quản tại Bệnh viện Chợ Rẫy trong 9 năm (1999-2007) ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ NGOẠI KHOA UNG THƯ THỰC QUẢN TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY TRONG 9 NĂM (1999-2007) Nguyễn Công Minh * Mục tiêu: Ung thư thực quản là bệnh lý ác tính tử vong cao. Điều trị chủ yếu hiện nay vẫn là phẫu thuật. Công trình này nhằm đánh giá thực trạng của BN ung thư TQ đến viện, khả năng phẫu thuật, các loại phẫu thuật được tiến hành tại khoa Ngoại lồng ngực BVCR và hiệu quả của các phương thức điều trị kết hợp của những năm gần đây. Phương pháp nghiên cứu và kết quả: Trong 9 năm (1999-2007) chúng tôi có 451 BN ung thư TQ: nhiều nhất là 50-70, tuổi trung bình là 51 (trẻ nhất 39 và lớn tuổi nhất là 94). Nam gấp 10 lần nữ. Hầu hết BN đến viện trong giai đoạn trễ. Đa số sang thương ở 1/3 giữa, 62% và nhiều nhất là ung thư tế bào gai, 84%. Phẫu thuật 3 đường mổ được chọn (35%), phẫu thuật Orringer (5%). Đa số đều được điều trị kết hợp hóa hoặc hóa-xạ sau mổ. Biến chứng sau mổ là 18% và tử vong 8,3%. Không có BN nào sống 5 năm. BN sống lâu nhất là 2 năm 7 tháng. Kết luận: Cho đến hiện nay, mặc dù phẫu thuật vẫn giữ vai trò chủ lực trongđiều trị các ung thư TQ giai đoạn sớm, nhưng hóa trị hoặc hóa-xạ trị kết hợp luôn được tôn trọng trong điều trị giai đoạn tiến triển khu trú. Vì đa số BN của chúng tôi đến muộn nên chỉ định mổ không còn ý nghĩa triệt để nữa. Các PT chúng tôi thực hiện chỉ là PT tạm bợ, giúp BN ăn uống được, do đó tỷ lệ sống 5 năm không có, mặc dù tất cả đều có hóa trị hoặc hóa-xạ kết hợp. Làm sao chẩn đoán sớm để mổ triệt để là yếu tố thành công trong điều trị ung thư TQ. ABSTRACT SURGICAL TREATMENT OF THE ESOPHAGEAL CANCER AT CHORAY HOSPITAL IN 9 YEARS (1999-2007) Nguyen Cong Minh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 143 - 151 Objective: Cancer of the esophagus is a highly lethal malignancy. Until now, the optimal treatment is operation. This reseach will focus on the actual situation of the esophageal cancer at the Depatment of cardiothoracic surgery in ChoRay hospital, the surgical for esophagectomy and the results of the combined modality aproaches on these diseases in the recently years. Methods and Results: During 9 years, between 1/1999 to 12/2007, we are 451 esophagus cancer: the peak from 50-70 years old, the mean age 51 (range 39-94). male is 10 times more than female. All of them were in the late stage. 62% in the midle third of the esophagus and the squamous cell carcinoma was popular, 84%. The triincision esophgectomy technique is prefered, 35% and after that is Orringe’s technique, 5%. Most of them were combined chemo or chemoradiotherapy post-operative. The complication was 18% and 8,3% mortality. The 5 years survival rate of 0%, the latest survival person was 2 years and 7months. Conclusion: Although surgery may be consider for selected patients with early stage, radiation conbined with chemotherapy is prefered with locally advanced disease. Because of the late stage disease, the curative treatment was not radical significance. All of our operations were palliatives, the 5 years survival rate was none, though combined chemo or chemoradiotherapy post-operative. Early stage intramural esophageal cancer for radical en bloc esophagectomy is the optimal condition. nhất của thực quản (TQ) và là một trong 10 loại PHẦN MỞ ĐẦU ung thư gặp hàng đầu ở Việt Nam. Theo 1 thống Ung thư thực quản là một bệnh thường gặp * Bệnh viện Trưng Vương Chuyên Đề Ngoại Khoa 1 kê của Viện tầm soát ung thư quốc gia Mỹ thì mỗi năm, ỡ Mỹ có 16.470 người được phát hiện ung thư TQ và có đến 14.280 BN chết hàng năm vì bệnh này(4,16). Nhiều giả thuyết cho rằng loại ung thư này có liên quan đến yếu tố nhiễm độc thức ăn của môi trường, thiếu dinh dưỡng, thiếu sinh tố, thiếu máu, vệ sinh răng miệng kém, ăn uống đồ nóng. Còn ở các nước phương Tây thì chủ yếu là do rượu và thuốc lá. Tuổi Bảng 1 Tuổi ≤ 40 41-50 51-60 61-70 ≥ 70 TS BN nam BN nữ 7 3 91 7 135 9 111 14 63 11 407 44 Tổng Số 10 98 144 125 74 451 Tỷ lệ 2% 22% 32% 28% 16% 100% Tuổi chiếm đa số là 50-70 (60%). Điều trị chủ yếu hiện nay vẫn là phẫu thuật, nhưng vì BN đến muộn nên phẫu thuật tạm bợ chiếm đa số, tỷ lệ sống 5 năm còn thấp. Trung bình 51 tuổi. BN nhỏ tuổi nhất là 39, lớn nhất là 94 tuổi Thực quản là một “ống cơ”, ít nguồn máu nuôi, nên phẫu thuật TQ là phẫu thuật khó, dễ bục khi khâu nối. Công trình này nhằm đánh giá thực trạng của BN ung thư TQ đến viện, khả năng phẫu thuật, các loại phẫu thuật được tiến hành tại BVCR và hiệu quả của các phương thức điều trị kết hợp của những năm gần đây. Lâm sàng Nuốt nghẹn Nuốt nghẹn là TC đặc hiệu của ung thư TQ (số bảng) ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Bảng 2 - Tất cả BN bị ung thư thực quản và tâm vị được xác định kết quả sinh thiết qua nội soi và chẩn đoán hình ảnh học và được điều trị phẫu thuật tại khoa Ngoại lồng ngực BVCR trong 9 năm (1/1999-12/2007). Chúng tôi không nghiên cứu 45 BN cắt TQ qua khe hoành và 49 BN ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đánh giá kết quả điều trị ngoại khoa ung thư thực quản tại Bệnh viện Chợ Rẫy trong 9 năm (1999-2007) ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ NGOẠI KHOA UNG THƯ THỰC QUẢN TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY TRONG 9 NĂM (1999-2007) Nguyễn Công Minh * Mục tiêu: Ung thư thực quản là bệnh lý ác tính tử vong cao. Điều trị chủ yếu hiện nay vẫn là phẫu thuật. Công trình này nhằm đánh giá thực trạng của BN ung thư TQ đến viện, khả năng phẫu thuật, các loại phẫu thuật được tiến hành tại khoa Ngoại lồng ngực BVCR và hiệu quả của các phương thức điều trị kết hợp của những năm gần đây. Phương pháp nghiên cứu và kết quả: Trong 9 năm (1999-2007) chúng tôi có 451 BN ung thư TQ: nhiều nhất là 50-70, tuổi trung bình là 51 (trẻ nhất 39 và lớn tuổi nhất là 94). Nam gấp 10 lần nữ. Hầu hết BN đến viện trong giai đoạn trễ. Đa số sang thương ở 1/3 giữa, 62% và nhiều nhất là ung thư tế bào gai, 84%. Phẫu thuật 3 đường mổ được chọn (35%), phẫu thuật Orringer (5%). Đa số đều được điều trị kết hợp hóa hoặc hóa-xạ sau mổ. Biến chứng sau mổ là 18% và tử vong 8,3%. Không có BN nào sống 5 năm. BN sống lâu nhất là 2 năm 7 tháng. Kết luận: Cho đến hiện nay, mặc dù phẫu thuật vẫn giữ vai trò chủ lực trongđiều trị các ung thư TQ giai đoạn sớm, nhưng hóa trị hoặc hóa-xạ trị kết hợp luôn được tôn trọng trong điều trị giai đoạn tiến triển khu trú. Vì đa số BN của chúng tôi đến muộn nên chỉ định mổ không còn ý nghĩa triệt để nữa. Các PT chúng tôi thực hiện chỉ là PT tạm bợ, giúp BN ăn uống được, do đó tỷ lệ sống 5 năm không có, mặc dù tất cả đều có hóa trị hoặc hóa-xạ kết hợp. Làm sao chẩn đoán sớm để mổ triệt để là yếu tố thành công trong điều trị ung thư TQ. ABSTRACT SURGICAL TREATMENT OF THE ESOPHAGEAL CANCER AT CHORAY HOSPITAL IN 9 YEARS (1999-2007) Nguyen Cong Minh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 143 - 151 Objective: Cancer of the esophagus is a highly lethal malignancy. Until now, the optimal treatment is operation. This reseach will focus on the actual situation of the esophageal cancer at the Depatment of cardiothoracic surgery in ChoRay hospital, the surgical for esophagectomy and the results of the combined modality aproaches on these diseases in the recently years. Methods and Results: During 9 years, between 1/1999 to 12/2007, we are 451 esophagus cancer: the peak from 50-70 years old, the mean age 51 (range 39-94). male is 10 times more than female. All of them were in the late stage. 62% in the midle third of the esophagus and the squamous cell carcinoma was popular, 84%. The triincision esophgectomy technique is prefered, 35% and after that is Orringe’s technique, 5%. Most of them were combined chemo or chemoradiotherapy post-operative. The complication was 18% and 8,3% mortality. The 5 years survival rate of 0%, the latest survival person was 2 years and 7months. Conclusion: Although surgery may be consider for selected patients with early stage, radiation conbined with chemotherapy is prefered with locally advanced disease. Because of the late stage disease, the curative treatment was not radical significance. All of our operations were palliatives, the 5 years survival rate was none, though combined chemo or chemoradiotherapy post-operative. Early stage intramural esophageal cancer for radical en bloc esophagectomy is the optimal condition. nhất của thực quản (TQ) và là một trong 10 loại PHẦN MỞ ĐẦU ung thư gặp hàng đầu ở Việt Nam. Theo 1 thống Ung thư thực quản là một bệnh thường gặp * Bệnh viện Trưng Vương Chuyên Đề Ngoại Khoa 1 kê của Viện tầm soát ung thư quốc gia Mỹ thì mỗi năm, ỡ Mỹ có 16.470 người được phát hiện ung thư TQ và có đến 14.280 BN chết hàng năm vì bệnh này(4,16). Nhiều giả thuyết cho rằng loại ung thư này có liên quan đến yếu tố nhiễm độc thức ăn của môi trường, thiếu dinh dưỡng, thiếu sinh tố, thiếu máu, vệ sinh răng miệng kém, ăn uống đồ nóng. Còn ở các nước phương Tây thì chủ yếu là do rượu và thuốc lá. Tuổi Bảng 1 Tuổi ≤ 40 41-50 51-60 61-70 ≥ 70 TS BN nam BN nữ 7 3 91 7 135 9 111 14 63 11 407 44 Tổng Số 10 98 144 125 74 451 Tỷ lệ 2% 22% 32% 28% 16% 100% Tuổi chiếm đa số là 50-70 (60%). Điều trị chủ yếu hiện nay vẫn là phẫu thuật, nhưng vì BN đến muộn nên phẫu thuật tạm bợ chiếm đa số, tỷ lệ sống 5 năm còn thấp. Trung bình 51 tuổi. BN nhỏ tuổi nhất là 39, lớn nhất là 94 tuổi Thực quản là một “ống cơ”, ít nguồn máu nuôi, nên phẫu thuật TQ là phẫu thuật khó, dễ bục khi khâu nối. Công trình này nhằm đánh giá thực trạng của BN ung thư TQ đến viện, khả năng phẫu thuật, các loại phẫu thuật được tiến hành tại BVCR và hiệu quả của các phương thức điều trị kết hợp của những năm gần đây. Lâm sàng Nuốt nghẹn Nuốt nghẹn là TC đặc hiệu của ung thư TQ (số bảng) ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Bảng 2 - Tất cả BN bị ung thư thực quản và tâm vị được xác định kết quả sinh thiết qua nội soi và chẩn đoán hình ảnh học và được điều trị phẫu thuật tại khoa Ngoại lồng ngực BVCR trong 9 năm (1/1999-12/2007). Chúng tôi không nghiên cứu 45 BN cắt TQ qua khe hoành và 49 BN ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tạp chí y học Nghiên cứu y học Ung thư thực quản Điều trị ung thư thực quản Ung thư tế bào gaiTài liệu liên quan:
-
Tổng quan hệ thống về lao thanh quản
6 trang 315 0 0 -
5 trang 308 0 0
-
8 trang 262 1 0
-
Tổng quan hệ thống hiệu quả kiểm soát sâu răng của Silver Diamine Fluoride
6 trang 253 0 0 -
Vai trò tiên lượng của C-reactive protein trong nhồi máu não
7 trang 238 0 0 -
Khảo sát hài lòng người bệnh nội trú tại Bệnh viện Nhi Đồng 1
9 trang 224 0 0 -
13 trang 204 0 0
-
8 trang 203 0 0
-
5 trang 202 0 0
-
9 trang 198 0 0