![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
Đánh giá kết quả điều trị rò tụy tại Bệnh viện Chợ Rẫy
Số trang: 9
Loại file: pdf
Dung lượng: 230.21 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nghiên cứu hồi cứu trong thời gian 5 năm từ tháng 6.2003-6.2008 trên tất cả bệnh nhân được chẩn đoán rò tụy từ tuyến trước chuyển đến hoặc được chẩn đoán và điều trị tại khoa ngoại gan- mật-tụy Bệnh viện Chợ Rẫy, nhằm đánh giá kết quả điều trị rò tụy tại Bệnh viện này.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đánh giá kết quả điều trị rò tụy tại Bệnh viện Chợ Rẫy ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ RÒ TỤY TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY Đỗ Hữu Liệt*, Nguyễn Phước Hưng*, Nguyễn Tấn Cường*, Phạm Hữu Thiện Chí*, Sử Quốc Khởi*, Trần Đình Minh Tú* TÓM TẮT Mở đầu: Rò tụy xảy ra khi ống tuỵ bị tổn thương do nhiều nguyên nhân khác nhau, từ đó dịch tụy theo đường rò thoát ra ngoài ra da (hầu hết trường hợp) hoặc vào ổ bụng. Khoảng 70-90% bệnh nhân rò tụy sẽ lành với điều trị bảo tồn, số còn lại cần phải phẫu thuật, và việc điều trị này rất khó khăn. Mục tiêu và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu trong thời gian 5 năm từ tháng 6.20036.2008 trên tất cả bệnh nhân được chẩn đoán rò tụy từ tuyến trước chuyển đến hoặc được chẩn đóan và điều trị tại khoa Ngọai Gan- Mật- Tụy Bệnh viện Chợ Rẫy. Kết quả: Có 47 bệnh nhân, nam 37 (78,7%), nữ 10 (21,3%), tuổi trung bình 38,81 (18-78). Có 15 trường hợp rò sau cắt tụy, 11 sau khâu tụy, 6 sau bóc nang tụy, 5 trường hợp rò sau mổ viêm tuỵ hoại tử, 5 sau cắt lách và 5 trường hợp do nguyên nhân khác. Đa số là rò cung lượng thấp (35 trường hợp; 74,5%), 44 trường hợp rò ra da (93,6%). Điều trị bảo tồn 14 trường hợp, ERCP 7 trường hợp, ERCP sau đó phẫu thuật 11 trường hợp, phẫu thuật 15 trường hợp,. Thời gian trước phẫu thuật trung bình 27,87 ngày (8-69 ngày). Biến chứng hậu phẫu có 1 trường hợp tử vong do chảy máu, 16 trường hợp vẫn còn rò (trong đó rò tái phát 10 trường hợp), nhiễm trùng vết mổ 3 trường hợp. Thời gian nằm viện trung bình 19,06 ngày (5-52 ngày). Kết luận: Rò tụy là hậu quả của nhiều nguyên nhân gây ra,việc điều trị rất khó khăn, tỷ lệ rò tái phát cao,đòi hỏi phải phối hợp nhiều phương pháp điều trị cùng lúc.Đánh giá mức độ nặng của rò tụy cũng như xem xét toàn diện nhiều mặt về bệnh lý,về tình trạng của bệnh nhân là rất cần thiết góp phần nâng cao tỷ lệ thành công trong việc điều trị cho bệnh nhân SUMMARY TREATMENT OF PANCREATIC FISTULAAT CHORAY HOSPITAL IN FIVE YEARS FROM 2003 TO 2008 Do Huu Liet, Nguyen Phuoc Hung, Nguyen Tan Cuong, Pham Huu Thien Chi, Su Quoc Khoi, Tran Dinh Minh Tri * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 3 - 2008: 68 - 74 Background: Pancreatic fistula results from many causes when pancreatic duct disruption occurs and communicates with skin (in most instances) or into abdominal cavity. Approximately 70-90% will heal with conservative treatment, the rest will need surgery that are usually challanging. Methods: Retrospectively study have been performed during 5 year period, from June 2003 to June 2008 on patients referred from other hospitals or primarily diagnosed and treated at the department of Hepato-biliary-pancreatic surgery of Cho Ray hospital. Result: There were 47 patients with pancreatic fistulas, in which 37 (87,7%) male, 10 (21,3%) were female, mean age 37,94 (range18-78). There were 15 cases resulted from pancreatic resection, 11 cases from pancreatic suturing after trauma, 6 cases from cyst removal, 5 cases resulted from surgical debridement of acute pancreatitis, 5 cases from splenectomy and 5 cases from other causes. The vast majority were low output fistulas (35 patients; 74,5%), 44 were external fistulas (93,6%). Conservative treatment was applied in 14 cases; ERCP in 7 cases; * Khoa Ngọai Gan- Mật- Tụy, Bệnh viện Chợ Rẫy Chuyên Đề Ngoại Khoa - Rò Tiêu hóa và Hội chứng Ruột Ngắn Sau Mổ 1 ERCP following by surgery in 11 cases, and surgical intervention applied in 15 cases. The mean fistula duration pior to surgical intervention was 27,87days (range 8-69). Postoperative complications included one mortality due to bleeding, 16 cases still had persistent fistulas (10 recurrent fistulas) and 6 fistulas after conservative treatment, 3 had incisional infections.The mean hospital stays were 19,06 days(range 5-52). Conclusion: Pancreatic fistula resulted from various causes and often closes spontaneously with conservative management. Treatment was challenging with of high recurrent fistulous rate which required combinative treatments. Judgements of serity grade of fistulas as well as hollistic consideration of patient’s status evaluation are necessary to increase successful rate in patient management. Phân loại rò tụy MỞ ĐẦU Rò tụy là hậu quả của nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra khi ống tuỵ bị tổn thương, từ đó dịch tụy theo đường rò thoát ra ngoài ra da hoặc vào ổ bụng. Hầu hết các trường hợp là rò ra da. Thông thường khoảng 70-90% bệnh nhân rò tụy sẽ lành với việc điều trị nội khoa.Tuy nhiên, một số trường hợp còn lại can phải điều trị bằng phẫu thuật, và việc điều trị này rất khó khăn. Mục tiêu nghiên cứu và phương pháp Chúng tôi hồi cứu trong thời gian 5 năm từ tháng 6.2003-6.2008 tất cả bệnh nhân được chẩn đoán rò tụy trước đó tại tuyến trước chuyển đến hoặc bệnh nhân được chẩn đóan và điều trị tại khoa Ngọai Gan- mật-tụy, bệnh viện Chợ Rẫy. KẾT QUẢ Có 47 trường hợp rò tụy trong thời gian 5 năm Bảng 1- Phân lọai theo vị trí rò Theo vị trí Rò trong ổ bụng Rò ra da N 3 44 Tỷ lệ(%) 6,4 93, ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đánh giá kết quả điều trị rò tụy tại Bệnh viện Chợ Rẫy ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ RÒ TỤY TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY Đỗ Hữu Liệt*, Nguyễn Phước Hưng*, Nguyễn Tấn Cường*, Phạm Hữu Thiện Chí*, Sử Quốc Khởi*, Trần Đình Minh Tú* TÓM TẮT Mở đầu: Rò tụy xảy ra khi ống tuỵ bị tổn thương do nhiều nguyên nhân khác nhau, từ đó dịch tụy theo đường rò thoát ra ngoài ra da (hầu hết trường hợp) hoặc vào ổ bụng. Khoảng 70-90% bệnh nhân rò tụy sẽ lành với điều trị bảo tồn, số còn lại cần phải phẫu thuật, và việc điều trị này rất khó khăn. Mục tiêu và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu trong thời gian 5 năm từ tháng 6.20036.2008 trên tất cả bệnh nhân được chẩn đoán rò tụy từ tuyến trước chuyển đến hoặc được chẩn đóan và điều trị tại khoa Ngọai Gan- Mật- Tụy Bệnh viện Chợ Rẫy. Kết quả: Có 47 bệnh nhân, nam 37 (78,7%), nữ 10 (21,3%), tuổi trung bình 38,81 (18-78). Có 15 trường hợp rò sau cắt tụy, 11 sau khâu tụy, 6 sau bóc nang tụy, 5 trường hợp rò sau mổ viêm tuỵ hoại tử, 5 sau cắt lách và 5 trường hợp do nguyên nhân khác. Đa số là rò cung lượng thấp (35 trường hợp; 74,5%), 44 trường hợp rò ra da (93,6%). Điều trị bảo tồn 14 trường hợp, ERCP 7 trường hợp, ERCP sau đó phẫu thuật 11 trường hợp, phẫu thuật 15 trường hợp,. Thời gian trước phẫu thuật trung bình 27,87 ngày (8-69 ngày). Biến chứng hậu phẫu có 1 trường hợp tử vong do chảy máu, 16 trường hợp vẫn còn rò (trong đó rò tái phát 10 trường hợp), nhiễm trùng vết mổ 3 trường hợp. Thời gian nằm viện trung bình 19,06 ngày (5-52 ngày). Kết luận: Rò tụy là hậu quả của nhiều nguyên nhân gây ra,việc điều trị rất khó khăn, tỷ lệ rò tái phát cao,đòi hỏi phải phối hợp nhiều phương pháp điều trị cùng lúc.Đánh giá mức độ nặng của rò tụy cũng như xem xét toàn diện nhiều mặt về bệnh lý,về tình trạng của bệnh nhân là rất cần thiết góp phần nâng cao tỷ lệ thành công trong việc điều trị cho bệnh nhân SUMMARY TREATMENT OF PANCREATIC FISTULAAT CHORAY HOSPITAL IN FIVE YEARS FROM 2003 TO 2008 Do Huu Liet, Nguyen Phuoc Hung, Nguyen Tan Cuong, Pham Huu Thien Chi, Su Quoc Khoi, Tran Dinh Minh Tri * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 3 - 2008: 68 - 74 Background: Pancreatic fistula results from many causes when pancreatic duct disruption occurs and communicates with skin (in most instances) or into abdominal cavity. Approximately 70-90% will heal with conservative treatment, the rest will need surgery that are usually challanging. Methods: Retrospectively study have been performed during 5 year period, from June 2003 to June 2008 on patients referred from other hospitals or primarily diagnosed and treated at the department of Hepato-biliary-pancreatic surgery of Cho Ray hospital. Result: There were 47 patients with pancreatic fistulas, in which 37 (87,7%) male, 10 (21,3%) were female, mean age 37,94 (range18-78). There were 15 cases resulted from pancreatic resection, 11 cases from pancreatic suturing after trauma, 6 cases from cyst removal, 5 cases resulted from surgical debridement of acute pancreatitis, 5 cases from splenectomy and 5 cases from other causes. The vast majority were low output fistulas (35 patients; 74,5%), 44 were external fistulas (93,6%). Conservative treatment was applied in 14 cases; ERCP in 7 cases; * Khoa Ngọai Gan- Mật- Tụy, Bệnh viện Chợ Rẫy Chuyên Đề Ngoại Khoa - Rò Tiêu hóa và Hội chứng Ruột Ngắn Sau Mổ 1 ERCP following by surgery in 11 cases, and surgical intervention applied in 15 cases. The mean fistula duration pior to surgical intervention was 27,87days (range 8-69). Postoperative complications included one mortality due to bleeding, 16 cases still had persistent fistulas (10 recurrent fistulas) and 6 fistulas after conservative treatment, 3 had incisional infections.The mean hospital stays were 19,06 days(range 5-52). Conclusion: Pancreatic fistula resulted from various causes and often closes spontaneously with conservative management. Treatment was challenging with of high recurrent fistulous rate which required combinative treatments. Judgements of serity grade of fistulas as well as hollistic consideration of patient’s status evaluation are necessary to increase successful rate in patient management. Phân loại rò tụy MỞ ĐẦU Rò tụy là hậu quả của nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra khi ống tuỵ bị tổn thương, từ đó dịch tụy theo đường rò thoát ra ngoài ra da hoặc vào ổ bụng. Hầu hết các trường hợp là rò ra da. Thông thường khoảng 70-90% bệnh nhân rò tụy sẽ lành với việc điều trị nội khoa.Tuy nhiên, một số trường hợp còn lại can phải điều trị bằng phẫu thuật, và việc điều trị này rất khó khăn. Mục tiêu nghiên cứu và phương pháp Chúng tôi hồi cứu trong thời gian 5 năm từ tháng 6.2003-6.2008 tất cả bệnh nhân được chẩn đoán rò tụy trước đó tại tuyến trước chuyển đến hoặc bệnh nhân được chẩn đóan và điều trị tại khoa Ngọai Gan- mật-tụy, bệnh viện Chợ Rẫy. KẾT QUẢ Có 47 trường hợp rò tụy trong thời gian 5 năm Bảng 1- Phân lọai theo vị trí rò Theo vị trí Rò trong ổ bụng Rò ra da N 3 44 Tỷ lệ(%) 6,4 93, ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tạp chí y học Nghiên cứu y học Điều trị rò tụy Bệnh rò tụy Chẩn đoán rò tụyTài liệu liên quan:
-
Tổng quan hệ thống về lao thanh quản
6 trang 320 0 0 -
5 trang 314 0 0
-
8 trang 269 1 0
-
Tổng quan hệ thống hiệu quả kiểm soát sâu răng của Silver Diamine Fluoride
6 trang 259 0 0 -
Vai trò tiên lượng của C-reactive protein trong nhồi máu não
7 trang 245 0 0 -
Khảo sát hài lòng người bệnh nội trú tại Bệnh viện Nhi Đồng 1
9 trang 232 0 0 -
13 trang 214 0 0
-
5 trang 212 0 0
-
8 trang 211 0 0
-
Tình trạng viêm lợi ở trẻ em học đường Việt Nam sau hai thập niên có chương trình nha học đường
4 trang 210 0 0