Đánh giá năng lực nghề nghiệp của sinh viên sư phạm Ngữ văn qua hoạt động trải nghiệm
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 2.40 MB
Lượt xem: 16
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết nhằm làm rõ định nghĩa về năng lực nghề nghiệp, các hình thức của hoạt động trải nghiệm và các thang đo để đánh giá các kỹ năng giảng dạy và khả năng xử lý tình huống trong tiết học nói chung và tiết học Ngữ văn nói riêng của người thầy được hình thành từ tình huống thực tiễn. Mời các bạn tham khảo!
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đánh giá năng lực nghề nghiệp của sinh viên sư phạm Ngữ văn qua hoạt động trải nghiệm VJE Tạp chí Giáo dục, Số 436 (Kì 2 - 8/2018), tr 29-33 ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC NGHỀ NGHIỆP CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM NGỮ VĂN QUA HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM Đào Phương Huệ - Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Tây Ngày nhận bài: 03/04/2018; ngày sửa chữa: 23/04/2018; ngày duyệt đăng: 03/05/2018. Abstract: Innovation in the content, form and basic criteria of evaluating the professional competence of students of literary teaching is necessary. Of all forms, experiential activities proved their effectiveness. The article aims to clarify the definition of professional competence, forms of experiential activity and scales for evaluating the teaching skills and the ability to handle situations in class in general and Literature class in particular of the teacher formed from practical situation. Dealing with the challenging situations in literature teaching, creative activities through interactive stages, self-research with Intel Isef will be essential activities for future teachers to build up the key professional skills. Keywords: Experiential activity, school situations, interative stage, professional competence.1. Mở đầu Theo GS.TS. Đinh Quang Báo: NL là khả năng vận Để phát triển và nâng cao kĩ năng nghề cũng như giúp dụng những kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng, thái độ vàsinh viên (SV) sư phạm Ngữ văn đáp ứng được yêu cầu hứng thú để hành động một cách phù hợp và hiệu quảcủa chương trình giáo dục mới sau 2018, cần gắn kết đào trong những tình huống đa dạng của cuộc sống [1].tạo với thực tiễn nghề nghiệp; năng lực (NL) người học Như vậy, bản chất của NL chính là khả năng chủsau tốt nghiệp phải tương xứng với văn bằng, chứng chỉ động ứng phó linh hoạt, sáng tạo của mỗi cá nhân trongđược cấp. Kiểm tra (KT), đánh giá (ĐG) kết thúc quá những tình huống cụ thể, bất ngờ của thực tiễn nghềtrình đào tạo, cần đo lường được độ rộng, chiều sâu và nghiệp, của cuộc sống; là khả năng làm chủ những hệđộ phức hợp NL nghề ở mỗi bậc trình độ. thống kiến thức, kĩ năng, thái độ và vận hành (kết nối) Mặt khác, hoạt động dạy học Ngữ văn trong nhà chúng một cách hợp lí để thực hiện thành công nhiệm vụtrường phổ thông mang những đặc trưng riêng, đòi hỏi sự hoặc giải quyết hiệu quả vấn đề đặt ra của chuyên môn,đối thoại, tranh luận giữa giáo viên (GV) và học sinh (HS), của cuộc sống.giữa HS với HS về một vấn đề của cuộc sống được bài học 2.1.2. Về kiểm tra, đánh giá năng lựcđề cập tới. Vì thế, những kiến giải “một chiều” không còn NL chính là một thể thống nhất bao gồm kiến thức,phù hợp với tâm lí lứa tuổi của HS thời đại “công nghệ số” kĩ năng và thái độ không tách biệt nhau. Do đó, ĐG theohiện nay. Yêu cầu GV Ngữ văn là phải giải đáp, thể hiện NL là đánh giá dựa trên khả năng thực hiện nhiệm vụ cụchính kiến trước những cái nhìn đa chiều, thậm chí trái thể ở một mức độ phức tạp hơn của thực tiễn đời sống.ngược nhau của HS về những tín hiệu nghệ thuật, nhân vật Theo tác giả Nguyễn Công Khanh: ĐG người học theovà ý nghĩa tác phẩm văn học; có khả năng nghiên cứu và cách tiếp cận NL là ĐG theo chuẩn về sản phẩm đầusáng tạo để phát huy NL người học... Hoạt động (HĐ) trải ra…; sản phẩm đó không chỉ là kiến thức, kĩ năng mànghiệm với xử lí tình huống trong dạy học Ngữ văn; hoạt chủ yếu là khả năng vận dụng kiến thức, kĩ năng và tháiđộng sáng tạo qua sân khấu tương tác; tự nghiên cứu qua độ cần có để thực hiện nhiệm vụ đạt tới một chuẩn đã được xác định [2].sân chơi Intel Isef sẽ góp phần đáp ứng yêu cầu trên. Như vậy, ĐG NL không chỉ ĐG việc thực hiện một2. Nội dung nghiên cứu nhiệm vụ học tập cụ thể trong trường học mà hướng tới2.1. Một số vấn đề lí luận ĐG NL giải quyết một vấn đề chuyên môn cụ thể trong2.1.1. Về năng lực nghề thực tiễn nghề nghiệp. Vận dụng ĐG NL, chúng ta còn Theo quan điểm của những nhà tâm lí học, NL là tổng có thể dựa vào sản phẩm người học đã tạo ra để ĐG sựhợp các đặc điểm, thuộc tính của cá nhân phù hợp với tiến bộ của người học trong từng giai đoạn của quá trìnhyêu cầu đặc trưng của một HĐ nhất định nhằm đảm bảo đào tạo.cho HĐ đó đạt hiệu quả cao. NL của con người không ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đánh giá năng lực nghề nghiệp của sinh viên sư phạm Ngữ văn qua hoạt động trải nghiệm VJE Tạp chí Giáo dục, Số 436 (Kì 2 - 8/2018), tr 29-33 ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC NGHỀ NGHIỆP CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM NGỮ VĂN QUA HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM Đào Phương Huệ - Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Tây Ngày nhận bài: 03/04/2018; ngày sửa chữa: 23/04/2018; ngày duyệt đăng: 03/05/2018. Abstract: Innovation in the content, form and basic criteria of evaluating the professional competence of students of literary teaching is necessary. Of all forms, experiential activities proved their effectiveness. The article aims to clarify the definition of professional competence, forms of experiential activity and scales for evaluating the teaching skills and the ability to handle situations in class in general and Literature class in particular of the teacher formed from practical situation. Dealing with the challenging situations in literature teaching, creative activities through interactive stages, self-research with Intel Isef will be essential activities for future teachers to build up the key professional skills. Keywords: Experiential activity, school situations, interative stage, professional competence.1. Mở đầu Theo GS.TS. Đinh Quang Báo: NL là khả năng vận Để phát triển và nâng cao kĩ năng nghề cũng như giúp dụng những kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng, thái độ vàsinh viên (SV) sư phạm Ngữ văn đáp ứng được yêu cầu hứng thú để hành động một cách phù hợp và hiệu quảcủa chương trình giáo dục mới sau 2018, cần gắn kết đào trong những tình huống đa dạng của cuộc sống [1].tạo với thực tiễn nghề nghiệp; năng lực (NL) người học Như vậy, bản chất của NL chính là khả năng chủsau tốt nghiệp phải tương xứng với văn bằng, chứng chỉ động ứng phó linh hoạt, sáng tạo của mỗi cá nhân trongđược cấp. Kiểm tra (KT), đánh giá (ĐG) kết thúc quá những tình huống cụ thể, bất ngờ của thực tiễn nghềtrình đào tạo, cần đo lường được độ rộng, chiều sâu và nghiệp, của cuộc sống; là khả năng làm chủ những hệđộ phức hợp NL nghề ở mỗi bậc trình độ. thống kiến thức, kĩ năng, thái độ và vận hành (kết nối) Mặt khác, hoạt động dạy học Ngữ văn trong nhà chúng một cách hợp lí để thực hiện thành công nhiệm vụtrường phổ thông mang những đặc trưng riêng, đòi hỏi sự hoặc giải quyết hiệu quả vấn đề đặt ra của chuyên môn,đối thoại, tranh luận giữa giáo viên (GV) và học sinh (HS), của cuộc sống.giữa HS với HS về một vấn đề của cuộc sống được bài học 2.1.2. Về kiểm tra, đánh giá năng lựcđề cập tới. Vì thế, những kiến giải “một chiều” không còn NL chính là một thể thống nhất bao gồm kiến thức,phù hợp với tâm lí lứa tuổi của HS thời đại “công nghệ số” kĩ năng và thái độ không tách biệt nhau. Do đó, ĐG theohiện nay. Yêu cầu GV Ngữ văn là phải giải đáp, thể hiện NL là đánh giá dựa trên khả năng thực hiện nhiệm vụ cụchính kiến trước những cái nhìn đa chiều, thậm chí trái thể ở một mức độ phức tạp hơn của thực tiễn đời sống.ngược nhau của HS về những tín hiệu nghệ thuật, nhân vật Theo tác giả Nguyễn Công Khanh: ĐG người học theovà ý nghĩa tác phẩm văn học; có khả năng nghiên cứu và cách tiếp cận NL là ĐG theo chuẩn về sản phẩm đầusáng tạo để phát huy NL người học... Hoạt động (HĐ) trải ra…; sản phẩm đó không chỉ là kiến thức, kĩ năng mànghiệm với xử lí tình huống trong dạy học Ngữ văn; hoạt chủ yếu là khả năng vận dụng kiến thức, kĩ năng và tháiđộng sáng tạo qua sân khấu tương tác; tự nghiên cứu qua độ cần có để thực hiện nhiệm vụ đạt tới một chuẩn đã được xác định [2].sân chơi Intel Isef sẽ góp phần đáp ứng yêu cầu trên. Như vậy, ĐG NL không chỉ ĐG việc thực hiện một2. Nội dung nghiên cứu nhiệm vụ học tập cụ thể trong trường học mà hướng tới2.1. Một số vấn đề lí luận ĐG NL giải quyết một vấn đề chuyên môn cụ thể trong2.1.1. Về năng lực nghề thực tiễn nghề nghiệp. Vận dụng ĐG NL, chúng ta còn Theo quan điểm của những nhà tâm lí học, NL là tổng có thể dựa vào sản phẩm người học đã tạo ra để ĐG sựhợp các đặc điểm, thuộc tính của cá nhân phù hợp với tiến bộ của người học trong từng giai đoạn của quá trìnhyêu cầu đặc trưng của một HĐ nhất định nhằm đảm bảo đào tạo.cho HĐ đó đạt hiệu quả cao. NL của con người không ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Năng lực nghề nghiệp Sinh viên sư phạm Ngữ văn Hoạt động trải nghiệm Khả năng xử lý tình huống Kỹ năng giảng dạyGợi ý tài liệu liên quan:
-
Những phẩm chất hiệu quả của người giáo viên: Phần 1
52 trang 298 0 0 -
17 trang 184 0 0
-
Các yếu tố cấu thành năng lực nghề nghiệp giáo viên mầm non
7 trang 64 0 0 -
Phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo thông qua hoạt động trải nghiệm
4 trang 48 1 0 -
139 trang 35 0 0
-
LÀM THẾ NÀO ĐỂ KHÔNG TRỞ THÀNH MỘT 'CHUYÊN GIA GÂY MÊ'- TRONG LÚC GIẢNG BÀI ?
18 trang 33 0 0 -
Thiết kế các hoạt động trải nghiệm trong dạy học môn Toán lớp 1
3 trang 32 1 0 -
Bạn có nên chọn nghề đạo diễn?
0 trang 32 0 0 -
4 thách thức nghề nghiệp nên thử
3 trang 32 0 0 -
14 trang 31 0 0