Danh mục

Danh sách Hoàng đế La Mã

Số trang: 54      Loại file: pdf      Dung lượng: 650.58 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 30,000 VND Tải xuống file đầy đủ (54 trang) 0
Xem trước 6 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Danh hiệu ‘“Hoàng đế La Mã”’ được các nhà sử học về sau dùng để gọi người đứng đầu nhà nước La Mã trong thời kỳ đế quốc. Đế quốc La Mã phát triển từ nền cộng hòa, sau khi nó từng bước thống trị toàn bộ bờ biển Địa Trung Hải, quyền lực cũng dần tập trung vào một người duy nhất, vượt trên cả Senate và toàn thể công dân La Mã.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Danh sách Hoàng đế La Mã Danh sách Hoàng đế La MãAugustus, first Roman Emperor in the Principate Era.Danh hiệu ‘“Hoàng đế La Mã”’ được các nhà sử học về sau dùng để gọi ngườiđứng đầu nhà nước La Mã trong thời kỳ đế quốc. Đế quốc La Mã phát triển từ nềncộng hòa, sau khi nó từng bước thống trị toàn bộ bờ biển Địa Trung Hải, quyềnlực cũng dần tập trung vào một người duy nhất, vượt trên cả Senate và toàn thểcông dân La Mã.Augustus, người được công nhận rộng rãi là hoàng đế La Mã đầu tiên, lên cầmquyền sau một cuộc chiến đẫm máu và trong một thời kỳ mà nhiều người dân LaMã còn giữ ý niệm mạnh mẽ về nền cộng hòa, đã cẩn thận duy trì lớp vỏ cộng hòacho nền cai trị của mình(từ năm 27 tr.CN) [1] Ông không đặt ra một danh hiệu mới,mà tập trung quyền lực vào một chức vụ tồn tại từ trước mà nay ông thâu tóm, ‘’Princeps Senatus’’ (người thứ nhất của Senate). Nền cai trị với danh hiệu này, tồntại gần 300 năm, được gọi là ‘‘Chế độ Nguyên thủ’’ (Principate).Về mặt từ nguyên, từ ‘’ Hoàng đế’’ trong các ngôn ngữ châu Âu xuất phát từ tiếngLatin ‘’Imperator’’, một danh hiệu người đứng đầu quân đội. Trong thời kỳ đầucủa đế chế, Nguyên thủ không đương nhiên được danh hiệu này mà phải đoạtđược bằng một thành tích quân sự. Tuy nhiên trong thời hiện đại nó được dùngmột cách không phân biệt mọi nhà cai trị của đế quốc La Mã trong các giai đoạnkhác nhau, với hàm ý nhấn mạnh liên hệ mạnh mẽ giữa nền cai trị và quân đội đếchế.Cuối thế kỷ thứ 3(sau CN), lên cầm quyền sau một thời kỳ nội chiến và bạo loạnkéo dài, Diocletianus đã chính thức hóa và tô điểm thêm cho danh hiệu hoàng đế,bắt buộc sự tập trung rõ ràng vào quyền lực cá nhân hoàng đế và tiếng tôn xưng‘Dominus Noster’ (Chúa tể của chúng ta) của các quần thần.Từ Diocletian về sau, thường tồn tại những hoàng đế cai trị đồng thời trong quátrình phân rã đế quốc(có lúc lên tới 4 hoàng đế chia nhau cai trị các phần lãnh thổLa Mã), dần dần tiến tới sự chia tách làm hai thể chế: Đế quốc Tây La Mã và Đếquốc Đông La Mã [2]. Về mặt hiến pháp chúng không thực sự riêng biệt nhưngtrong khi miền Tây ngày càng mất ổn định thì các hoàng đế ở Constantinoplethường áp đặt quyền lực mình lên nửa Tây đế quốc. Đế quốc Tây La Mã suy sụpvào thế kỷ thứ V, hoàng đế cuối cùng đã thoái vị vào năm 476 trong khi đế quốcĐông La Mã phát triền thành Đế quốc Byzantine còn tồn tại được tới năm 1453.[3] .Tuy sự kế vị trong hoàng tộc là không đứt đoạn ở Byzantine và liên hệ với Đếquốc La Mã cổ đại, sự thay đổi tính chất của đế quốc Byzantine như một nền quânchủ phong kiến phương Đông khiến cho danh sách này chỉ dừng lại ở các vị vuatriều đại Justinian. ’’Để xem danh sách đầy đủ các Hoàng đế Byzantine, xem: Danh sách Hoàng đế Byzantine’’Như vậy, danh hiệu ‘’Hoàng đế La Mã’’ là không nhất quán như danh hiệu‘’hoàng đế’’ ở Trung Quốc hay Việt Nam. Trong nhiều trường hợp, việc xác địnhmột người có là hoàng đế ‘’hợp pháp’’(tiếng Anh:legitimate) hay không là rất khókhăn. Danh sách dưới đây được lập dựa trên nguyên tắc “hoàng đế hợp pháp” phảithỏa mãn một trong các điều kiện:* Là người cai trị toàn bộ Đế quốc mà quyền lực thực tế không bị ai tranh cãi (1) Là người được công nhận là người thừa kế hợp pháp hoặc là hoàng đế cùng  cai trị hợp pháp bởi một hoàng đế hợp pháp trước đó, và đã kế vị cai trị “theo quyền hạn của mình”(2) Khi có nhiều người cùng tuyên bố đứng đầu Đế quốc, mà không ai trong số  đó là người thừa kế hợp pháp, thì người được chấp nhận bởi Viện nguyên lão là Hoàng đế hợp pháp của La Mã(3)Từ sau khi đế quốc phân chia vào năm 395, hoàng đế hợp pháp là người cai trị mộtphần đế quốc (Đông hoặc Tây) mà không bị tranh cãi. Riêng với đế quốc Tây LaMã, có những giai đoạn để trống ngôi hoàng đế và do sự mất mát sử liệu về giaiđoạn sau 455(khi đế quốc được coi là sụp đổ), tất cả hoàng đế giai đoạn sau đó đềuđược liệt kê, dù thông thường Romulus Augustus thường được coi là Hoàng đế LaMã cuối cùng (thoái vị vào năm 476).Mục lục 1 Chế độ Nguyên thủ  1.1 Triều đại Julio-Claudian o 1.2 Năm Bốn Hoàng đế và triều đại Flavian o 1.3 Triều đại Nervan-Antonian o 1.4 Năm Năm Hoàng đế và triều đại Severan o 1.5 Các Hoàng đế trong cuộc khủng hoảng thế kỷ III o 2 The Dominate  2.1 Tetrarchy and Constantinian dynasty o 2.2 Valentinian dynasty o 2.3 Theodosian dynasty o 2.4 The last emperors of the Western Empire o 3 Byzantine Emperors  3.1 Leonid Dynasty o 3.2 Justinian Dynasty o 4 Timeline  5 See also  6 References  7 External links [Chế độ Nguyên thủ[ ] Triều đại Julio-Claudian{{c ...

Tài liệu được xem nhiều: