Đào Duy Từ gặp người tri kỷ
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 128.76 KB
Lượt xem: 12
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Đào Duy Từ gặp người tri kỷ
Sách Đại Nam thực lục (Tiền biên, quyển 2) chép rằng: "Ất sửu, năm thứ 12 (tức năm 1625-ND). Mùa đông, Đào Duy từ đén theo (chúa Nguyễn). Duy từ người xã Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, xứ Thanh Hoa (Nay thuộc tỉnh Thanh Hóa-ND), laug thông kinh sử, lạigiỏi cả thiên văn và thuất số. Năm ấy, Thanh Hoa có kỳ thi hương, quan Hiến ti cho Duy Từ là con phường chèo nên tước bỏ tên, không cho vào thi. Duy Từ bực tức trở về, nhân nghe tiếng chúa (Nguyễn) yêu...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đào Duy Từ gặp người tri kỷ Đào Duy Từ gặp người tri kỷ Sách Đại Nam thực lục (Tiền biên, quyển 2) chép rằng: Ất sửu, năm thứ 12 (tức năm 1625-ND). Mùa đông, Đào Duy từ đén theo (chúa Nguyễn). Duy từ người xã Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, xứ Thanh Hoa (Nay thuộc tỉnh Thanh Hóa-ND), laug thông kinh sử, lạigiỏi cả thiên văn và thuất số. Năm ấy, Thanh Hoa có kỳ thi h ương, quan Hiến ti cho Duy Từ là con phường chèo nên tước bỏ tên, không cho vào thi. Duy Từ bực tức trở về, nhân nghe tiếng chúa (Nguyễn) yêu dân và quý học trò, các bậc hào kiệt đều quy phục, nên quyết chí vào Nam một mình để theo. (Đến nơi, Đào Duy Từ) ở huyện Vũ Xương đến hơn một tháng nhưng không ai biết đến tên cả. Lúc ấy có tin quan Khám lí huyện Hoài Nhân lad trần Đức Hòa, giàu mưu lược, được Chúa tin dùng, (ông ) bèn vào Hoài Nhân, (lúc đầu) giả thác làm người ở chăn trâu cho một nhà giàu ở xã Tùng Châu. Nhà giàu này thấy ông là người biết rộng, nghe nhiều, bèn nói với (Trần )Đức Hoà. Đức Hòa đến nói chuyện với ông, thấy ông không có điều gì là không thông suốt, lấy làm kính trọng, bèn gả con gái cho. Duy Từ từng ngâm bài Ngọa Long Cương để tự ví mình (với Khổng Minh Gia Cát Lượng). Đức Hòa thấy thế, nói: - Đào Duy Từ là Ngọa Long( tức Khổng Minh-ND) đời nay chăng? Năm 1627, quân của Trịnh tráng chủ động tấn công quân của chúa Nguyễn, nhưng trải mấy tháng trời không thể thu được thắng lợi, họ liền rút lui. Được tin này, trần Đức Hòa từ quê nhà là Hoài Nhân ra tận phủ Chúa để chúc mừng. Cũng sáh trên chép tiếp: Chúa hỏi cuộc sống của dân xứ Quảng Nam sướng khổ thế nào, Hòa liền thưa: - Nhờ chúa thượng rộng ban ơn huệ, lại giữ hiệu lệnh nghiêm minh nên trăm họ ai ai cũng được an cư lạc nghiệp. Nói rồi, Đức Hòa ung dung lấy bài Ngọa Long Cương từ trong tay áo ra dâng và thưa rằng: - Bài thơ này do gia sư của tôi là Đào Duy Từ làm ra. Chúa xem, thấy lạ, liền giục mời (Đào Duy Từ) đến. Mấy ngày sau, Đức Hòa cùng Đào Duy Từ đến ra mắt. Lúc ấy, Chúa mặc áo trắng, đứng ở cửa nách chờ, Duy Từ vừa chợt nhìn thấy đã đứng lại, không chịu đi nữa. Chúa liền vào mặc áo, đội mũ chỉnh tề để ra mời. Duy Từ lúc ấy mới rảo bước vào lạy. (Chúa và Duy Từ) cùng nói chuyện. Chúa vui vẻ hỏi: - Khanh sao đến muộn thế? Nói xong, trao ngay cho chức Nha úy Nội tán, tước Lộc Khê Hầu, sai trông coi việc quân cơ trong ngoài và dự bàn việc lớn của quốc gia. Chúa mời (Duy Từ) vào trong cung cấm để bàn bạc. Duy Từ nhân đó bày tỏ hết những điều uẩn khúc trong lòng cho Chúa hay. Chúa khen Đức Hòa là bậc biết người, bèn trọng thưởng cho ông. Lần hiến kế lớn đầu tiên của Đào Duy Từ Tháng ba năm Canh Ngọ (1630), Đầo Duy Từ đã lập công lớn bằng cách hiến kế cho chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Sự kiện này được sách Đại Nam thực lục (Tiền biên, quyển 2) chép như sau: Trước đó, Đào Duy Từ thường khuyên Chúa đừng nạp thuế cho họ Trịnh. Chúa nói: - Tiên vương( chỉ Nguyễn Hoàng - ND) tài trí hơn người mà cũng còn phải chịu đi lại thông hiếu. Ta nay nhỏ kém không thể sánh với Tiên vương, đất đai và binh sĩ khí giới lại không bằng một phần mười của Đông Đô (đây chỉ chúa Trịnh - ND), nếu không nạp thuế thì lấy gì để giữ đất và nối nghiệp? Duy Từ thưa rằng: - Thần nghe, trí tuệ chẳng bằng nắm đ ược thời thế. Tiên vương sẵn uy vũ anh hùng, mưu kế sáng suốt,chẳh phải là không thế riêng giữ đất đai, nhưng thời ấy, thuộc tướng ở Tam ti ( tức Thừa ti, Đô ti và Hiến ti - ND) đều do họ Trịnh cắt đặt, ví như thời vua Lê Thái Tông có Mai Cầu làm Tổng binh Thuận Hóa, thời vua Lê Kính Tông có Vũ Chân làm Hiến sát Thuận Hóa...v.v, nhất cử nhất động đều bị họ chú ý kiềm chế, cho nên, Tiên vương mới chịu nhẫn nại như vậy. Nay, Chúa thượng chuyên chế cả một phương, quan thuộc đều tự quyền cắt đặt, dẫu nói một lời cũng đâu ai dám trái. Thần xin được hiến kế, theo đó thì không phải nạp thuế mà vẫn giữ được đất đai, lại còn có thể dựng nên nghiệp lớn. Chúa hỏi: - Đó là kế gì? (Đào) Duy Từ thưa: - Muốn mưu đồ bá vương, cần phải có kế vẹn toàn. Người xưa nói rằng, nếu không có một lần khó nhọc thì không thể ngơi nghỉ lâu dài, nếu không chịu phí tổn nhất thời thì không thể có yên ổn mãi . Thần xin được hiến bản vẽ, đem quân dân hai trấn đến đắp một cái lũy dài, trên nối với núi Trường Dục, dưới kéo đến bãi cát Hạc Hải , nhân theo thế đất mà đặt chỗ hiểm để giữ vùng biên cảnh, quân địch dẫu có đến cũng không làm gì được. Chúa theo kế ấy, huy động quân dân đắp lũy Trường Dục, hơn một tháng thì xong. Chúa lại hỏi (Đào) Duy Từ về cách trả lại tờ sắc phong, Duy Từ thưa: - Nên đúc một cái mâm đồng hai đáy, giấu sắc phong ở giữa, xong, sắm đầy đủ lễ vật, lấy tướng Thần lại và Văn khuông (chưa rõ họ) làm sứ giả đi tạ ơn. Thần xin nghĩ sẵn hơn mười câu hỏi và trả lời để trao cho sứ giả mang đi, đến nơi sẽ tùy cơ ứng biến. Hễ đem xong mâm đồng cho họ Trịnh thì mau tìm cách về. Làm như thế, họ Trịnh sẽ mắc mưu ta. Chúa theo lời, sai Văn Khuông đi Đông Đô. Văn Khuông đến, Trịnh Tráng mời vào yết kiến và hỏi: - Trước đây đã ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đào Duy Từ gặp người tri kỷ Đào Duy Từ gặp người tri kỷ Sách Đại Nam thực lục (Tiền biên, quyển 2) chép rằng: Ất sửu, năm thứ 12 (tức năm 1625-ND). Mùa đông, Đào Duy từ đén theo (chúa Nguyễn). Duy từ người xã Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, xứ Thanh Hoa (Nay thuộc tỉnh Thanh Hóa-ND), laug thông kinh sử, lạigiỏi cả thiên văn và thuất số. Năm ấy, Thanh Hoa có kỳ thi h ương, quan Hiến ti cho Duy Từ là con phường chèo nên tước bỏ tên, không cho vào thi. Duy Từ bực tức trở về, nhân nghe tiếng chúa (Nguyễn) yêu dân và quý học trò, các bậc hào kiệt đều quy phục, nên quyết chí vào Nam một mình để theo. (Đến nơi, Đào Duy Từ) ở huyện Vũ Xương đến hơn một tháng nhưng không ai biết đến tên cả. Lúc ấy có tin quan Khám lí huyện Hoài Nhân lad trần Đức Hòa, giàu mưu lược, được Chúa tin dùng, (ông ) bèn vào Hoài Nhân, (lúc đầu) giả thác làm người ở chăn trâu cho một nhà giàu ở xã Tùng Châu. Nhà giàu này thấy ông là người biết rộng, nghe nhiều, bèn nói với (Trần )Đức Hoà. Đức Hòa đến nói chuyện với ông, thấy ông không có điều gì là không thông suốt, lấy làm kính trọng, bèn gả con gái cho. Duy Từ từng ngâm bài Ngọa Long Cương để tự ví mình (với Khổng Minh Gia Cát Lượng). Đức Hòa thấy thế, nói: - Đào Duy Từ là Ngọa Long( tức Khổng Minh-ND) đời nay chăng? Năm 1627, quân của Trịnh tráng chủ động tấn công quân của chúa Nguyễn, nhưng trải mấy tháng trời không thể thu được thắng lợi, họ liền rút lui. Được tin này, trần Đức Hòa từ quê nhà là Hoài Nhân ra tận phủ Chúa để chúc mừng. Cũng sáh trên chép tiếp: Chúa hỏi cuộc sống của dân xứ Quảng Nam sướng khổ thế nào, Hòa liền thưa: - Nhờ chúa thượng rộng ban ơn huệ, lại giữ hiệu lệnh nghiêm minh nên trăm họ ai ai cũng được an cư lạc nghiệp. Nói rồi, Đức Hòa ung dung lấy bài Ngọa Long Cương từ trong tay áo ra dâng và thưa rằng: - Bài thơ này do gia sư của tôi là Đào Duy Từ làm ra. Chúa xem, thấy lạ, liền giục mời (Đào Duy Từ) đến. Mấy ngày sau, Đức Hòa cùng Đào Duy Từ đến ra mắt. Lúc ấy, Chúa mặc áo trắng, đứng ở cửa nách chờ, Duy Từ vừa chợt nhìn thấy đã đứng lại, không chịu đi nữa. Chúa liền vào mặc áo, đội mũ chỉnh tề để ra mời. Duy Từ lúc ấy mới rảo bước vào lạy. (Chúa và Duy Từ) cùng nói chuyện. Chúa vui vẻ hỏi: - Khanh sao đến muộn thế? Nói xong, trao ngay cho chức Nha úy Nội tán, tước Lộc Khê Hầu, sai trông coi việc quân cơ trong ngoài và dự bàn việc lớn của quốc gia. Chúa mời (Duy Từ) vào trong cung cấm để bàn bạc. Duy Từ nhân đó bày tỏ hết những điều uẩn khúc trong lòng cho Chúa hay. Chúa khen Đức Hòa là bậc biết người, bèn trọng thưởng cho ông. Lần hiến kế lớn đầu tiên của Đào Duy Từ Tháng ba năm Canh Ngọ (1630), Đầo Duy Từ đã lập công lớn bằng cách hiến kế cho chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Sự kiện này được sách Đại Nam thực lục (Tiền biên, quyển 2) chép như sau: Trước đó, Đào Duy Từ thường khuyên Chúa đừng nạp thuế cho họ Trịnh. Chúa nói: - Tiên vương( chỉ Nguyễn Hoàng - ND) tài trí hơn người mà cũng còn phải chịu đi lại thông hiếu. Ta nay nhỏ kém không thể sánh với Tiên vương, đất đai và binh sĩ khí giới lại không bằng một phần mười của Đông Đô (đây chỉ chúa Trịnh - ND), nếu không nạp thuế thì lấy gì để giữ đất và nối nghiệp? Duy Từ thưa rằng: - Thần nghe, trí tuệ chẳng bằng nắm đ ược thời thế. Tiên vương sẵn uy vũ anh hùng, mưu kế sáng suốt,chẳh phải là không thế riêng giữ đất đai, nhưng thời ấy, thuộc tướng ở Tam ti ( tức Thừa ti, Đô ti và Hiến ti - ND) đều do họ Trịnh cắt đặt, ví như thời vua Lê Thái Tông có Mai Cầu làm Tổng binh Thuận Hóa, thời vua Lê Kính Tông có Vũ Chân làm Hiến sát Thuận Hóa...v.v, nhất cử nhất động đều bị họ chú ý kiềm chế, cho nên, Tiên vương mới chịu nhẫn nại như vậy. Nay, Chúa thượng chuyên chế cả một phương, quan thuộc đều tự quyền cắt đặt, dẫu nói một lời cũng đâu ai dám trái. Thần xin được hiến kế, theo đó thì không phải nạp thuế mà vẫn giữ được đất đai, lại còn có thể dựng nên nghiệp lớn. Chúa hỏi: - Đó là kế gì? (Đào) Duy Từ thưa: - Muốn mưu đồ bá vương, cần phải có kế vẹn toàn. Người xưa nói rằng, nếu không có một lần khó nhọc thì không thể ngơi nghỉ lâu dài, nếu không chịu phí tổn nhất thời thì không thể có yên ổn mãi . Thần xin được hiến bản vẽ, đem quân dân hai trấn đến đắp một cái lũy dài, trên nối với núi Trường Dục, dưới kéo đến bãi cát Hạc Hải , nhân theo thế đất mà đặt chỗ hiểm để giữ vùng biên cảnh, quân địch dẫu có đến cũng không làm gì được. Chúa theo kế ấy, huy động quân dân đắp lũy Trường Dục, hơn một tháng thì xong. Chúa lại hỏi (Đào) Duy Từ về cách trả lại tờ sắc phong, Duy Từ thưa: - Nên đúc một cái mâm đồng hai đáy, giấu sắc phong ở giữa, xong, sắm đầy đủ lễ vật, lấy tướng Thần lại và Văn khuông (chưa rõ họ) làm sứ giả đi tạ ơn. Thần xin nghĩ sẵn hơn mười câu hỏi và trả lời để trao cho sứ giả mang đi, đến nơi sẽ tùy cơ ứng biến. Hễ đem xong mâm đồng cho họ Trịnh thì mau tìm cách về. Làm như thế, họ Trịnh sẽ mắc mưu ta. Chúa theo lời, sai Văn Khuông đi Đông Đô. Văn Khuông đến, Trịnh Tráng mời vào yết kiến và hỏi: - Trước đây đã ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Đào Duy Từ Đại Nam thực lục kỳ thi hương quan Hiến ti Khám lí huyện Hoài NhânTài liệu liên quan:
-
Niềm tin tôn giáo và các dịch bệnh trong lịch sử
25 trang 37 0 0 -
Những bài thơ về các hang động tại Ngũ Hành sơn của vua Minh Mệnh
9 trang 33 0 0 -
Nguyễn Tư Giản: Danh thần triều Nguyễn nửa sau thế kỷ XIX
10 trang 33 0 0 -
Hoa kiều trong chính sách cứu nạn biển của nhà Nguyễn đầu thế kỷ XIX
9 trang 31 0 0 -
Vua Minh Mạng với việc đảo vũ (cầu mưa)
5 trang 30 0 0 -
158 trang 26 0 0
-
Thủy quân thời Chúa Nguyễn qua góc nhìn của người nước ngoài đương thời
11 trang 23 0 0 -
7 trang 22 0 0
-
Chuyến triều cống sau cùng của triều đại Tây Sơn
34 trang 22 0 0 -
14 trang 21 0 0