DẤU ẤN NGHỆ THUẬT CHĂM TRONG TRANG TRÍ KIẾN TRÚC HOÀNG THÀNH THĂNG LONG
Số trang: 7
Loại file: pdf
Dung lượng: 148.61 KB
Lượt xem: 12
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Năm 2003, việc phát lộ khu di tích khảo cổ học tại 18 Hoàng Diệu được đánh giá là một trong 7 sự kiện văn hóa lớn của Việt Nam. Chưa bao giờ ở Hà Nội lại có cuộc khai quật khảo cổ nào mang đến một số lượng lớn ước tính khoảng hơn 3 triệu di vật có giá trị. Nó đã giúp hé lộ những chứng cứ lịch sử quan trọng của cả nghìn năm trải qua các triều Lý, Trần, Lê. Từ cuộc khai quật này, cũng là lần đầu tiên các nhà mỹ thuật được...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
DẤU ẤN NGHỆ THUẬT CHĂM TRONG TRANG TRÍ KIẾN TRÚC HOÀNG THÀNH THĂNG LONG DẤU ẤN NGHỆ THUẬT CHĂM TRONG TRANG TRÍ KIẾN TRÚC HOÀNG THÀNH THĂNG LONG GARUDA phong cách Tháp Manx Năm 2003, việc phát lộ khu di tích khảo cổ học tại 18 Hoàng Diệu được đánh giá là một trong 7 sự kiện văn hóa lớn của Việt Nam. Chưa bao giờ ở Hà Nội lại có cuộc khai quật khảo cổ nào mang đến một số lượng lớn ước tính khoảng hơn 3 triệu di vật có giá trị. Nó đã giúp hé lộ những chứng cứ lịch sử quan trọng của cả nghìn năm trải qua các triều Lý, Trần, Lê. Từ cuộc khai quật này, cũng là lần đầu tiên các nhà mỹ thuật được chứng kiến một khối lượng đồ sộ các sản phẩm mỹ thuật. Các tượng rồng, phượng được tìm thấy với kích thước khá lớn, cao gần đầu người, chứng tỏ các kiến trúc thời Lý, Trần, Lê ở đây được xây dựng rất công phu và đẹp đẽ. Các sản phẩm gốm từ gốm ngự dụng cho đến gốm mộc đã chứng thực một nền nghệ thuật Việt Nam đa dạng và phong phú. Đồng thời thông qua các hiện vật nghệ thuật này, chúng ta càng có điều kiện để khẳng định thêm những giả thiết về sự giao lưu văn hóa qua các thời kỳ. Đặc biệt là sự ảnh hưởng của văn hóa nghệ thuật Chăm trên nước Đại Việt xưa là khá đậm nét. Mặc dầu những di tích có niên đại Lý Trần, ngày nay không còn nhiều như bệ tượng Adiđà, cột đá chùa Dạm, các bệ đá hoa sen thời Trần, là những chứng cứ tiêu biểu cho sự có mặt của văn hóa Chăm trên mỹ thuật Việt. Những ngôi tháp cổ như Chương Sơn, Bình Sơn với những đặc trưng là gạch và đất nung với những trang trí rất gần gũi với tinh thần của nghệ thuật Chăm. Ngoài ra người ta cũng tìm thấy cả những pho tượng Chăm trên đất Việt tại chùa làng Võng La, nơi vào thời Đại Việt các vua Lý đã cấp cho các tù binh Chămpa ở để phục vụ cho công cuộc xây dựng nền nghệ thuật mới của mình. Việc có sự cộng cư của người Chăm và người Việt trên đất Bắc, và sự tham gia của người Chăm trong việc xây dựng các công trình đền đài chùa miếu, đã làm nên một bộ mặt rạng rỡ của mỹ thuật Việt trong buổi đầu độc lập và ảnh hưởng này còn duy trì mãi cho đến các giai đoạn sau. Việc phát lộ các di tích tại Hoàng Thành Thăng Long, đã giúp ta khẳng định sự ảnh hưởng này không chỉ tạo nên những dấu ấn trong nghệ thuật chạm khắc dân gian mà còn làm nên giá trị văn hóa trong nghệ thuật trong cung đình Đại Việt thời Lý Trần. Đặc trưng nhất trong các hiện vật tìm thấy ở Hoàng Thành Thăng Long là các đầu rồng và đầu phượng cao hơn 1m. Rồng vốn là con vật biểu tượng cho vương triều và mang nhiều nét ảnh hưởng từ nghệ thuật Trung Hoa. Nhưng nó hoàn toàn khác với sự mỏng manh của nguyên mẫu từ rồng Tùy Đường. Cái hàm con vật được mở rộng hơn, râu và bờm đã được hư cấu thêm, cộng nhập với nét thô khỏe của Thủy quái Makara trong nền văn hóa Chăm. Sự xuất hiện thêm cái mào lửa, và những vân hoa trên những vảy cách điệu hình thoi đã chứng thực cho sự ảnh hưởng này. Cho dù vậy, cái nét đặc biệt để rồng Lý Trần trở nên độc đáo với những biểu tượng mà nó thu nhận chính là lối thắt túi hình sin đều đặn. Nó cũng là nét chủ đạo cho hình ảnh tổng thể của con rồng cho dù con rồng đó được miêu tả trọn vẹn hay trích đoạn chỉ là một cái đầu để đưa lên trang trí phần nóc mái. Người ta có thể dễ dàng nhận ra trên cái mào lửa và cả trên cái bờm phía sau tai những chuyển động hình sin này là sự điệp lại của chuyển động của toàn bộ khúc thân. Chính điều này đã tạo cho rồng Lý vẻ sinh động, và cái thế lúc nào cũng vươn lên mang tinh thần vương triều thịnh vượng. Lối chuyển động hình sin này cũng được lặp lại trên hình ảnh những con Phượng, như muốn tạo lập nên những giá trị thống nhất. Hình tượng con Phượng có thể xem như một đối trọng khác, tương đối đặc biệt với hình tượng rồng kể trên. Với cái cổ vươn cao, cái mỏ lớn phía trên cong trùm lên mỏ dưới không khác bao xa với hình ảnh của chim Garuda (đặc biệt là các con Garuđa có kích thước lớn mang phong cách Tháp Mẫn). Tuy nhiên hình thức của chiếc mỏ này ít nhiều đã được giản lược đi. Thay vào đó các nghệ nhân lại tập chung miêu tả cái bờm lông sau tai phượng, tạo nên sự nhất quán trong các mô típ trang trí. Đối với những con rồng, hay phượng được chạm trong những hình lá đề lớn tìm thấy trong các di vật ở Hoàng Thành Thăng Long. Theo Nguyễn Tiến Đông, các dạng lá đề này mang âm hưởng điêu khắc của những chiếc lá nhĩ rất phổ biến trong cac đền tháp Chăm Pa (1). Những con rồng và phượng này chỉ là sự thay thế cho những vị thần như Brahma, Visnu, Siva, Uma hay các vũ nữ Apsara. Tuy nhiên người ta cũng nhìn thấy ở đây không chỉ là sự thay thế biểu tượng, mà trên những hình thức rồng hay phượng này còn tiếp tục sáng tạo. Hai đôi chân rất dài để sải những bước lớn học được trong mô típ rồng thời Tùy Đường kết hợp nhịp điệu dồn nén hình sin trên các thiết diện ngang tạo nên chuyển động uyển chuyển, thì trong các dạng thức lá đề này, đôi chân đó đã tạo thế cho việc chúng nâng quả cầu lửa ở trung tâm mang hình vành sáng nhọn đầu. Chính cách xử lý hình ảnh hai con rồng cuộn mình vào hai nửa hình lá đề và chầu và ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
DẤU ẤN NGHỆ THUẬT CHĂM TRONG TRANG TRÍ KIẾN TRÚC HOÀNG THÀNH THĂNG LONG DẤU ẤN NGHỆ THUẬT CHĂM TRONG TRANG TRÍ KIẾN TRÚC HOÀNG THÀNH THĂNG LONG GARUDA phong cách Tháp Manx Năm 2003, việc phát lộ khu di tích khảo cổ học tại 18 Hoàng Diệu được đánh giá là một trong 7 sự kiện văn hóa lớn của Việt Nam. Chưa bao giờ ở Hà Nội lại có cuộc khai quật khảo cổ nào mang đến một số lượng lớn ước tính khoảng hơn 3 triệu di vật có giá trị. Nó đã giúp hé lộ những chứng cứ lịch sử quan trọng của cả nghìn năm trải qua các triều Lý, Trần, Lê. Từ cuộc khai quật này, cũng là lần đầu tiên các nhà mỹ thuật được chứng kiến một khối lượng đồ sộ các sản phẩm mỹ thuật. Các tượng rồng, phượng được tìm thấy với kích thước khá lớn, cao gần đầu người, chứng tỏ các kiến trúc thời Lý, Trần, Lê ở đây được xây dựng rất công phu và đẹp đẽ. Các sản phẩm gốm từ gốm ngự dụng cho đến gốm mộc đã chứng thực một nền nghệ thuật Việt Nam đa dạng và phong phú. Đồng thời thông qua các hiện vật nghệ thuật này, chúng ta càng có điều kiện để khẳng định thêm những giả thiết về sự giao lưu văn hóa qua các thời kỳ. Đặc biệt là sự ảnh hưởng của văn hóa nghệ thuật Chăm trên nước Đại Việt xưa là khá đậm nét. Mặc dầu những di tích có niên đại Lý Trần, ngày nay không còn nhiều như bệ tượng Adiđà, cột đá chùa Dạm, các bệ đá hoa sen thời Trần, là những chứng cứ tiêu biểu cho sự có mặt của văn hóa Chăm trên mỹ thuật Việt. Những ngôi tháp cổ như Chương Sơn, Bình Sơn với những đặc trưng là gạch và đất nung với những trang trí rất gần gũi với tinh thần của nghệ thuật Chăm. Ngoài ra người ta cũng tìm thấy cả những pho tượng Chăm trên đất Việt tại chùa làng Võng La, nơi vào thời Đại Việt các vua Lý đã cấp cho các tù binh Chămpa ở để phục vụ cho công cuộc xây dựng nền nghệ thuật mới của mình. Việc có sự cộng cư của người Chăm và người Việt trên đất Bắc, và sự tham gia của người Chăm trong việc xây dựng các công trình đền đài chùa miếu, đã làm nên một bộ mặt rạng rỡ của mỹ thuật Việt trong buổi đầu độc lập và ảnh hưởng này còn duy trì mãi cho đến các giai đoạn sau. Việc phát lộ các di tích tại Hoàng Thành Thăng Long, đã giúp ta khẳng định sự ảnh hưởng này không chỉ tạo nên những dấu ấn trong nghệ thuật chạm khắc dân gian mà còn làm nên giá trị văn hóa trong nghệ thuật trong cung đình Đại Việt thời Lý Trần. Đặc trưng nhất trong các hiện vật tìm thấy ở Hoàng Thành Thăng Long là các đầu rồng và đầu phượng cao hơn 1m. Rồng vốn là con vật biểu tượng cho vương triều và mang nhiều nét ảnh hưởng từ nghệ thuật Trung Hoa. Nhưng nó hoàn toàn khác với sự mỏng manh của nguyên mẫu từ rồng Tùy Đường. Cái hàm con vật được mở rộng hơn, râu và bờm đã được hư cấu thêm, cộng nhập với nét thô khỏe của Thủy quái Makara trong nền văn hóa Chăm. Sự xuất hiện thêm cái mào lửa, và những vân hoa trên những vảy cách điệu hình thoi đã chứng thực cho sự ảnh hưởng này. Cho dù vậy, cái nét đặc biệt để rồng Lý Trần trở nên độc đáo với những biểu tượng mà nó thu nhận chính là lối thắt túi hình sin đều đặn. Nó cũng là nét chủ đạo cho hình ảnh tổng thể của con rồng cho dù con rồng đó được miêu tả trọn vẹn hay trích đoạn chỉ là một cái đầu để đưa lên trang trí phần nóc mái. Người ta có thể dễ dàng nhận ra trên cái mào lửa và cả trên cái bờm phía sau tai những chuyển động hình sin này là sự điệp lại của chuyển động của toàn bộ khúc thân. Chính điều này đã tạo cho rồng Lý vẻ sinh động, và cái thế lúc nào cũng vươn lên mang tinh thần vương triều thịnh vượng. Lối chuyển động hình sin này cũng được lặp lại trên hình ảnh những con Phượng, như muốn tạo lập nên những giá trị thống nhất. Hình tượng con Phượng có thể xem như một đối trọng khác, tương đối đặc biệt với hình tượng rồng kể trên. Với cái cổ vươn cao, cái mỏ lớn phía trên cong trùm lên mỏ dưới không khác bao xa với hình ảnh của chim Garuda (đặc biệt là các con Garuđa có kích thước lớn mang phong cách Tháp Mẫn). Tuy nhiên hình thức của chiếc mỏ này ít nhiều đã được giản lược đi. Thay vào đó các nghệ nhân lại tập chung miêu tả cái bờm lông sau tai phượng, tạo nên sự nhất quán trong các mô típ trang trí. Đối với những con rồng, hay phượng được chạm trong những hình lá đề lớn tìm thấy trong các di vật ở Hoàng Thành Thăng Long. Theo Nguyễn Tiến Đông, các dạng lá đề này mang âm hưởng điêu khắc của những chiếc lá nhĩ rất phổ biến trong cac đền tháp Chăm Pa (1). Những con rồng và phượng này chỉ là sự thay thế cho những vị thần như Brahma, Visnu, Siva, Uma hay các vũ nữ Apsara. Tuy nhiên người ta cũng nhìn thấy ở đây không chỉ là sự thay thế biểu tượng, mà trên những hình thức rồng hay phượng này còn tiếp tục sáng tạo. Hai đôi chân rất dài để sải những bước lớn học được trong mô típ rồng thời Tùy Đường kết hợp nhịp điệu dồn nén hình sin trên các thiết diện ngang tạo nên chuyển động uyển chuyển, thì trong các dạng thức lá đề này, đôi chân đó đã tạo thế cho việc chúng nâng quả cầu lửa ở trung tâm mang hình vành sáng nhọn đầu. Chính cách xử lý hình ảnh hai con rồng cuộn mình vào hai nửa hình lá đề và chầu và ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
dấu ấn nghệ thuật trường phái nghệ thuật mỹ thuật truyền thông nghệ thuật dân gian biểu tượng văn hóa kiến thức mỹ thuậtGợi ý tài liệu liên quan:
-
Tranh biếm họa trào phúng của họa sỹ Pawel Kuczynski
10 trang 338 0 0 -
Giải bài Kinh tế, văn hoá thế kỉ XVI – XVIII SGK Lịch sử 7
3 trang 114 0 0 -
7 trang 81 0 0
-
Sơ lược về Mỹ thuật thời Trần (1226-1400)
10 trang 54 0 0 -
10 trang 51 0 0
-
CHÂN DUNG HỌA SỸ NGUYỄN GIA TRÍ
3 trang 49 1 0 -
Hoạt động giáo dục giá trị nghệ thuật dân gian - Dân tộc trong học đường ở thành phố Hồ Chí Minh
11 trang 43 0 0 -
MỖI BỨC TRANH MỸ THUẬT - MỘT TẤM LÒNG
11 trang 43 0 0 -
Chạm khắc gỗ - Nghệ thuật thổi hồn vào cội rễ
21 trang 42 0 0 -
Nghiên cứu ngôn ngữ và văn hóa tiến tới xác lập vốn từ vựng văn hóa Việt: Phần 1
135 trang 41 0 0