Hội chứng đau vai gáy (shoulder-neck strain syndrome) là một chứng bệnh thường gặp đến nỗi có lẽ không một ai trong số chúng ta không từng bị phiền toái bởi nó ít nhất một lần trong cuộc đời. Hội chứng này có thể gặp ở mọi lứa tuổi nhưng hay gặp nhất là tuổi trung niên, đặc biệt với những người làm việc công sở phải ngồi nhiều. Hội chứng đau vai gáy thông thường không có gì nguy hiểm, song có thể gây ra nhiều lo lắng, khó chịu cho người bệnh và làm giảm chất lượng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đau vai gáy Đau vai gáy Hội chứng đau vai gáy (shoulder-neck strain syndrome) là một chứngbệnh thường gặp đến nỗi có lẽ không một ai trong số chúng ta không từng bịphiền toái bởi nó ít nhất một lần trong cuộc đời. Hội chứng này có thể gặp ởmọi lứa tuổi nhưng hay gặp nhất là tuổi trung niên, đặc biệt với những ngườilàm việc công sở phải ngồi nhiều. Hội chứng đau vai gáy thông thường không có gì nguy hiểm, song cóthể gây ra nhiều lo lắng, khó chịu cho người bệnh và làm giảm chất lượngcuộc sống. Chỉ cần người bệnh hiểu rõ và tuân thủ nghiêm túc chỉ dẫn củathầy thuốc thì chứng bệnh này không hề khó chữa trị chút nào. Có rất nhiều nguyên nhân có thể dẫn đến hội chứng đau vai gáy. Cácnguyên nhân thông thường nhất có thể kể đến như ngồi làm việc sai tư thếtrong thời gian dài, kẹp điện thoại vào vai vừa nghe vừa ghi chép, ngồi làmviệc liên tục với máy tính, sai tư thế khi lái ôtô, gối đầu, ngủ tựa đầu lên ghế,nằm xem tivi... Ngồi trước quạt, máy lạnh lâu, dầm mưa dãi nắng lâu, gội đầu, tắmrửa ban đêm làm giảm sự cung cấp oxy cho các tế bào cơ, gây thiếu máu cụcbộ ở các cơ cũng dẫn đến hội chứng đau vai gáy. Ngoài ra, hội chứng đauvai gáy còn có thể do các nguyên nhân bệnh lý như: thoái hóa cột sống cổ,thoát vị đĩa đệm cột sống cổ, vẹo cổ bẩm sinh, dị tật, viêm, chấn thươngvùng cổ. Đôi khi có những trường hợp hội chứng đau vai gáy xuất hiện tựphát mà không có nguyên nhân rõ rệt. Bệnh có thể tăng, giảm Các biểu hiện của hội chứng đau vai gáy thường gặp nhất là đau âm ỉhoặc dữ dội ở vùng cổ, gáy, cảm giác nhức nhối khó chịu, có khi đau nhóinhư điện giật. Đau có thể lan lên mang tai, thái dương hoặc lan xuống vai,cánh tay. Nhưng khác với bệnh viêm quanh khớp vai, người bệnh bị đau vaigáy không bị hạn chế vận động khớp. Một số trường hợp có thể kèm theo cocứng cơ, tê ở cánh tay, cẳng tay, bàn ngón tay hoặc nặng hơn là yếu liệt cơ,teo cơ. Có thể có các điểm đau khi ấn vào các gai sau và cạnh cột sống cổkèm hạn chế vận động cột sống cổ. Đau có thể xuất hiện tự phát hoặc saukhi lao động nặng, mệt mỏi, căng thẳng, nhiễm lạnh. Đau có thể cấp tính(xuất hiện đột ngột) hoặc mãn tính (âm ỉ, kéo dài). Đau thường có tính chấtcơ học: tăng khi đứng, đi, ngồi lâu, ho, hắt hơi, vận động cột sống cổ; giảmkhi nghỉ ngơi. Đau cũng có thể tăng khi thời tiết thay đổi. Để chẩn đoánnguyên nhân, người bệnh cần được thăm khám lâm sàng. Các phương tiệnhỗ trợ chẩn đoán bao gồm chụp X-quang cột sống cổ, đo điện cơ và chụpcộng hưởng từ (MRI) cột sống cổ. Các thuốc thường dùng trong điều trị hội chứng đau vai gáy bao gồmthuốc giảm đau chống viêm, phong bế thần kinh, giãn cơ và vitamin nhómB. Ngoài ra, các phương pháp vật lý trị liệu như nhiệt trị liệu, điện xung,sóng ngắn, siêu âm trị liệu, kéo dãn cột sống cổ, xoa bóp bấm huyệt, tập vậnđộng cột sống cổ cũng giúp ích rất nhiều cho việc điều trị. Tuy nhiên, ngườibệnh cũng cần phải nhớ rằng không được xoa bóp bấm huyệt hoặc tập vậnđộng trong giai đoạn cấp tính. Một số trường hợp người bệnh cần được điềutrị bằng phẫu thuật: thoát vị đĩa đệm, trượt đốt sống, vẹo cột sống... Phòng bệnh hơn chữa bệnh Để phòng bệnh tái phát, người bệnh cần chú ý không làm việc quá lâutại bàn giấy, đặc biệt với máy vi tính, cứ mỗi 30 phút nên dừng lại để thựchiện các động tác vận động cột sống cổ, vai và tay. Cần giữ cổ luôn thẳng,tránh sai tư thế khi ngồi học, đọc sách hoặc đánh máy, không cúi gập cổ quálâu. Không nằm gối đầu cao để đọc sách hay xem tivi sẽ làm sai tư thế củacột sống cổ. Khi ngủ chỉ gối đầu cao khoảng 10cm. Không bẻ cổ kêu răngrắc, nhiều người có thói quen khi mỏi cổ thường bẻ cổ, lắc cổ cho kêu và tinrằng làm như thế sẽ hết mỏi nhưng thực tế lại gây tác dụng hoàn toàn tráingược, bởi nếu đĩa đệm đã bị thoái hóa gây mỏi cổ, khi bẻ hoặc vặn sẽ tạođà cho đĩa đệm thoát vị ra ngoài và làm bệnh thêm trầm trọng. Nhiều cô thư ký có thói quen kẹp điện thoại vào cổ. Lời khuyên củabác sĩ là nghe điện thoại nên cầm ở tay, nếu có chỗ gác tay sẽ giảm bớt độcăng các cơ ở cổ và bả vai. Khi lái ôtô, môtô cần ngồi đúng tư thế, tránh ngảngười quá mức ra trước hoặc ra sau. Khi xem tivi nên tựa lưng vào đệm, đầuhơi ngửa ra sau thành ghế, cổ tựa vào một điểm phù hợp với độ cong sinh lýcủa cổ. Cuối cùng, người bệnh nên thường xuyên tập luyện thể dục thể thaohoặc tối thiểu là tập thể dục giữa giờ, áp dụng các động tác trong bài tập vậnđộng cột sống cổ để tăng khả năng chịu đựng, tăng sức dẻo dai của hệ thốnggân cơ, dây chằng quanh cột sống. ...