Bài viết nghiên cứu về thực trạng việc dạy và học trực tuyến môn Tiếng Anh 2 cho sinh viên không chuyên để tìm ra thuận lợi và khó khăn của giáo viên và sinh viên khi tiến hành dạy và học trực tuyến, từ đó đề xuất một vài hướng khắc phục những trở ngại phát sinh.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Dạy và học trực tuyến môn Tiếng Anh 2 cho sinh viên K69 không chuyên trường Đại học Sư phạm Hà Nội - Thực trạng và một số đề xuất VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt kì 1 tháng 5/2020, tr 180-185 ISSN: 2354-0753 DẠY VÀ HỌC TRỰC TUYẾN MÔN TIẾNG ANH 2CHO SINH VIÊN K69 KHÔNG CHUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI - THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT Phạm Thị Thanh Thúy+, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Hà Hồng Nga +Tác giả liên hệ ● Email: phamthanhthuy09@gmail.com Article History ABSTRACT Received: 03/4/2020 During being off at home because of COVID-19 pandemic, the first-year non- Accepted: 23/4/2020 English majors at Hanoi National University of Education kept learning the Published: 08/5/2020 subject English 2 online. Students read materials, did assignments on fitel.hnue.edu.vn and learnt directly with their lecturers on Microsoft Teams, Keywords Zoom or Google Meet. The research paper investigates advantages and online teaching and learning, disadvantages that lecturers and students faced up during this 8-week process of fitel.hnue.edu.vn, Microsoft online teaching and learning. The research revealed that students have initially got Teams, English 2, non- accustomed to learning online within 8 weeks; lecturers knew how to prepare and English majors. post online materials and assignments, regularly checked students’ online studying, successfully carried out online practice and discussion on Microsoft Teams. Additionally, findings showed that both lecturers and students encountered numerous difficulties during online teaching and learning; however, they did make hardest effort to overcome, making this online time joyful.1. Mở đầu Trong thời gian nghỉ học tại nhà do dịch bệnh COVID-19 bùng phát trên phạm vi toàn thế giới, dạy và học trựctuyến (HTT) là sự lựa chọn không thể nào tốt hơn. Việc HTT có nhiều điểm thuận lợi nhưng kèm theo những bất lợinhất định; tuy vậy, nhiều trường đại học trên khắp thế giới đã cho thấy việc học qua mạng vẫn thu hút được nhiềusinh viên (SV) (Ali Alghazo, 2005). Có thể thấy rằng, việc HTT sẽ hiệu quả hơn khi được tiến hành bởi giáo viên cókinh nghiệm đối với môn học họ phụ trách (The Center for Teaching, Office of Academic Planning and Assessment,the Center for Computer-Based Instructional Technology, and Continuing Education, 2002, tr 5). Các khóa HTT đãđược phát triển ở Mĩ và trên toàn cầu với tốc độ chóng mặt. Theo số liệu điều tra do Trung tâm nghiên cứu Pew thuthập trong năm học 2010-2011, 89% các trường đại học có chương trình đào tạo 4 năm dạy trực tuyến toàn thời gian,trực tuyến xen kẽ hoặc các hình thức hướng dẫn từ xa hoặc gián tiếp (Parker và cộng sự, 2011). Tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, trong thời gian nghỉ học ở nhà do dịch bệnh COVID-19 (từ sau kì nghỉTết Nguyên Đán đến 04/5/2020), SV không chuyên tiếp tục học môn Tiếng Anh 2 trực tuyến. Một mặt, nội dung bàigiảng được đăng tải lên fitel.hnue.edu.vn vào đầu tuần; mặt khác, giảng viên (GV) giảng dạy trực tiếp trên MicrosoftTeams, Zoom hoặc Google Meet. Trong suốt thời gian 8 tuần dạy và HTT, GV và SV có những thuận lợi nhất định;tuy vậy, khó khăn cũng không ít. Chính vì vậy, bài viết nghiên cứu về thực trạng việc dạy và HTT môn Tiếng Anh2 cho SV không chuyên để tìm ra thuận lợi và khó khăn của GV và SV khi tiến hành dạy và HTT, từ đó đề xuất mộtvài hướng khắc phục những trở ngại phát sinh.2. Kết quả nghiên cứu2.1. Dạy và học trực tuyến Trên thế giới và ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều định nghĩa về dạy và HTT. Theo Resta và Patru(2010), đào tạo trực tuyến hay dạy và HTT là hình thức học tập bằng truyền thông qua mạng Internet theo cách tươngtác với nội dung học tập và được thiết kế dựa trên nền tảng phương pháp dạy học (trích theo Trần Thị Lan Thu, 2019,tr 7). Manijeh Sadeghi (2019, tr 81) giải thích rằng, dạy và HTT là hình thức giáo dục trong đó SV có thể không cầnluôn luôn có mặt tại trường. Nói theo một cách khác, SV học, nghiên cứu và đạt được trình độ trong môn học mìnhđã chọn bằng hình thức trực tuyến mà không cần có mặt tại trung tâm tổ chức thi, giảng đường trường cao đẳng hoặckhuôn viên trường đại học. Một quan điểm tương tự là, dạy và HTT được định nghĩa như là mô hình được sử dụngtrong học tập khi người học không cần tham dự lớp học xây bằng gạch vữa, hoặc thường diễn ra ở một địa điểmkhác, cần đến sự giao tiếp thông qua công nghệ cũng như tổ chức đặc biệt, hoặc ở nơi mà SV và GV bị tách biệt vềđịa lí và thời gian (Moore & Kearsley, ...