Thông tin tài liệu:
III. Điều trị đột quỵ Đột quỵ là một cấp cứu y khoa. Trước đây, các bác sĩ thường gọi là “tai biến mạch não” để cho thấy việc điều trị khẩn cấp có thể cứu sống và giảm thiểu thương tật cho bệnh nhân. Các phương thức điều trị thay đổi tuỳ theo nguyên nhân và độ trầm trọng của bệnh. Tất cả các trường hợp đột quỵ đều phải được nhập viện và chăm sóc ở khoa hồi sức - cấp cứu. Mục tiêu quan trọng hàng đầu là đưa bệnh nhân đến ngay phòng cấp cứu,...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đề phòng, Chẩn đoán và Điều trị Đột quỵ (Kỳ 2) Đề phòng, Chẩn đoán và Điều trị Đột quỵ (Kỳ 2) III. Điều trị đột quỵ Đột quỵ là một cấp cứu y khoa. Trước đây, các bác sĩ thường gọi là “taibiến mạch não” để cho thấy việc điều trị khẩn cấp có thể cứu sống và giảm thiểuthương tật cho bệnh nhân. Các phương thức điều trị thay đổi tuỳ theo nguyên nhânvà độ trầm trọng của bệnh. Tất cả các trường hợp đột quỵ đều phải được nhập việnvà chăm sóc ở khoa hồi sức - cấp cứu. Mục tiêu quan trọng hàng đầu là đưa bệnh nhân đến ngay phòng cấp cứu,xác định xem nguyên nhân đột quỵ là do xuất huyết hay do nghẽn mạch (cục máuđông) và bắt đầu ngay việc điều trị thích hợp trong vòng 3 giờ đầu tiên. 1. Điều trị bước đầu Thuốc làm tan cục máu đông như tPA (tissue plasminogen activator), phávỡ huyết khối và phục hồi lưu lượng máu đến vùng tổn thương. Bệnh nhân đượcchỉ định dùng thuốc này sẽ ít di chứng thương tật về sau. Tuy nhiên, có nhữngtiêu chuẩn rất chặt chẽ trong việc dùng thuốc tan huyết khối. Việc quan trọng hàngđầu là bệnh nhân cần được đánh giá và điều trị ở một đơn vị chuyên khoa điều trịđột quỵ trong vòng 3 giờ kể từ khi các triệu chứng xuất hiện. Nếu đột quỵ xảyra do nguyên nhân xuất huyết thay vì nghẽn mạch do huyết khối, điều trị bẳngphương thức này sẽ khiến tình hình càng thêm tệ hại. Do đó cần thận trọng chẩnđoán nguyên nhân đột quỵ trước khi bắt đầu điều trị. - Trong một số trường hợp, các chất loãng máu (blood thinners) nhưheparin và coumadin được dùng để trị đột quỵ. Aspirin và các tác nhân kháng tiểucầu khác cũng có thể được sử dụng. - Các thuốc khác có thể được dùng để kiểm soát các triệu chứng đi kèm.Dùng các thuốc giảm đau khi nhức đầu dữ dội. Dùng thuốc hạ áp để kiểm soáttăng huyết áp. - Bơm chất dinh dưỡng qua ống sonde mũi-dạ dày hoặc ống mở dạ dày rada và dịch truyền tĩnh mạch sẽ cần thiết khi bệnh nhân nuốt khó. Rối loạn nuốt cóthể tạm thời hoặc vĩnh viễn. - Đối với đột quỵ do xuất huyết, đôi khi cần đến phẫu thuật để dẫn lưu máutụ và sửa chữa lại các mạch máu bị tổn thương. - Thực hiện việc hỗ trợ sự sống và điều trị hôn mê nếu cần thiết. 2. Điều trị dài hạn Mục tiêu của điều trị dài hạn là phục hồi lại được càng nhiều chức năngcàng tốt và ngăn ngừa các cơn đột quỵ kế tiếp. Tuỳ theo các triệu chứng, việc phụchồi bao gồm điều trị tiếng nói (speech therapy), điều trị bằng việc làm(occupational therapy), và vật lý trị liệu (physical therapy). Thời gian phục hồithay đổi tuỳ theo mỗi bệnh nhân. Vận động liệu pháp để tránh nhiễm trùng và loét tư thế. Bệnh nhân cần tíchcực hoạt động dù cho có những giới hạn về thể chất. Cần chăm sóc ống thôngtiểu và đường ruột để tránh tình trạng mất kiểm soát chức năng bàng quang và ruột(incontinence). Cần quan tâm đến sự an toàn của bệnh nhân. Một số bệnh nhân đột quỵ mấthoàn toàn ý thức đối với chung quanh ở bên bị tổn thương. Một số khác lại tỏ rathờ ơ với tất cả và mất khả năng phán đoán, do đó rất cần những biện pháp để đảmbảo an toàn cho họ. Đối với những bệnh nhân này, bạn bè và những người thâncần thường xuyên nhắc cho họ những thông tin như tên, tuổi, ngày, giờ, nơi sinhsống để giúp bệnh nhân luôn được định hướng. Người chăm sóc nên cho bịnh nhân xem những hình ảnh của họ, luônhướng dẫn họ hoàn tất các công việc, dùng các kỹ năng truyền đạt khác khi bịnhnhân có những rối loạn về tiếng nói. Những nơi lãnh nhiệm vụ chăm sóc bệnh nhân như gia đình, viện điềudưỡng, bệnh viện ban ngày, khoa vật lý trị liệu, khoa phục hồi chức năng v.v. cầncung cấp một môi trường chung quanh an toàn, có thể đối phó với tính cách kíchđộng và gây hấn của người bệnh và đáp ứng tốt những yêu cầu về y tế. Liệu pháp thay đổi ứng xử có thể hữu ích trong việc kiểm soát các cungcách ứng xử nguy hiểm và không thể chấp nhận được ở một số bệnh nhân. Bóc tách mảng xơ vữa ở lớp nội thành động mạch cảnh (Carotidendarterectomy): bóc tách các mảng xơ vữa ở động mạch cảnh sẽ giúp phòng ngừacác cơn đột quỵ mới trên những bệnh nhân bị tắc hẹp đáng kể ở các mạch máuquan trọng này. Hình 9- Phẫu thuật bóc tách mảng xơ vữa ở động mạch cảnh để tái lập lưu lượng máu đến nuôi não IV. Tiên lượng Tiên lượng của đột quỵ tuỳ thuộc vào mức độ tổn thương ở não, sự hiệndiện của các bệnh đi kèm và khả năng tái phát những cơn đột quỵ kế tiếp. Ở những người sống sót sau đột quỵ, đa số đều có những thương tật kéodài, nhưng có khoảng 10% bệnh nhân đột quỵ phục hồi gần như hoàn toàn. 50%có thể ở nhà với sự hỗ trợ của y tế trong khi 40% trở thành bệnh nhân thường trúcủa các viện điều dưỡng. V. Các biến chứng của đột quỵ - Các vấn đề do liệt (cứng khớp, loét tư thế) - Liệt vận động và mất cảm giác hoàn toàn ở một phần của cơ thể - Gãy xương ...