Đề tài triết học BẢO ĐẢM CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÌ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Số trang: 9
Loại file: pdf
Dung lượng: 162.77 KB
Lượt xem: 20
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Trong bài viết này, tác giả đã phân tích quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam coi công bằng xã hội là mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội. Để có được công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường, cần phải xác định và thực hiện đúng nguyên tắc phân phối phù hợp như Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra. Để phát huy vai trò động lực của công bằng xã hội, theo tác giả, cần khắc phục những thiếu sót trong việc thực hiện...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đề tài triết học " BẢO ĐẢM CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÌ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG " ------ Đề tài triết học BẢO ĐẢM CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÌ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG BẢO ĐẢM CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÌ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NGUYỄN NGỌC HÀ (*) Trong bài viết này, tác giả đã phân tích quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam coi công bằng xã hội là mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội. Để có được công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường, cần phải xác định và thực hiện đúng nguyên tắc phân phối phù hợp như Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra. Để phát huy vai tr ò động lực của công bằng xã hội, theo tác giả, cần khắc phục những thiếu sót trong việc thực hiện công bằng xã hội hiện đang còn tồn tại. Công tác lý luận cần h ướng vào việc nghiên cứu và giải quyết nhiệm vụ đó. Mở đầu Sự phát triển của một quốc gia không chỉ thể hiện ở sự phát triển về kinh tế, mà còn thể hiện ở sự phát triển về xã hội. Sự phát triển về kinh tế và sự phát triển về mặt xã hội có liên quan mật thiết với nhau. Công bằng xã hội là một nội dung quan trọng trong sự phát triển về mặt xã hội. Trong một xã hội có tình trạng bất công bằng, người bị đối xử bất công sẽ không thể phát huy hết tính tích cực của mình; hơn nữa, họ luôn đấu tranh đòi công bằng, cuộc đấu tranh này không tránh khỏi gây bất ổn định xã hội. Vì vậy, nếu quốc gia nào chỉ chú trọng phát triển về kinh tế mà không chú trọng bảo đảm công bằng xã hội, thì sự phát triển về kinh tế của quốc gia đó sẽ không bền vững. 1. Quan điểm coi công bằng xã hội là mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội ở Việt Nam Công bằng xã hội luôn được Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam coi vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Trong thời kỳ phong kiến và thuộc địa, tình trạng bất công bằng rất nghiêm trọng. Nhờ giương cao ngọn cờ công bằng mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ của đông đảo quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh xoá bỏ chế độ phong kiến và thuộc địa, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam đã thực hiện ngay hàng loạt chính sách nhằm xoá bỏ tình trạng bất công do xã hội trước để lại, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Giống như các nước xã hội chủ nghĩa khác trước đây, trước thời kỳ đổi mới, Việt Nam cũng chủ trương quốc hữu hoá và tập thể hoá các tư liệu sản xuất chủ yếu với hy vọng vừa có tăng tr ưởng kinh tế, vừa có công bằng xã hội. Vào những năm đầu của thời kỳ này, thành tựu trong việc xoá bỏ bất công bằng xã hội là rất to lớn. Đặc biệt, nhờ chính sách cải cách ruộng đất nên ước mơ “người cày có ruộng” của hàng triệu nông dân đã trở thành hiện thực. Tuy nhiên, sau một thời gian không lâu, sản xuất lại trở nên trì trệ, do đó đời sống nhân dân thấp kém và đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội. Nguyên nhân của tình hình sản xuất trở nên trì trệ là gì? Chắc chắn nó có nguyên nhân ở chỗ người lao động không hoàn toàn phấn khởi để phát huy hết tính tích cực của mình. Nhưng vì sao người lao động lại không hoàn toàn phấn khởi để phát huy hết tính tích cực của mình? Đó là vì lợi ích chính đáng của họ chưa được đảm bảo, hay nói cách khác, vì vẫn còn sự bất công bằng xã hội. Sự bất công của chế độ thực dân và phong kiến được xoá bỏ thì bất công mới lại nảy sinh, đó là sự phân phối bình bằng. quân, cào Từ năm 1986, nhờ thực hiện chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, Việt Nam đã thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và có được sự phát triển vượt bậc về nhiều mặt: kinh tế phát triển với tốc độ cao, xã hội ổn định, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện hơn. Sở dĩ chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường đem lại sự phát triển vượt bậc như vậy là vì chủ trương đó đã góp phần khắc phục sự bất công của chính sách phân phối bằng. bình quân, cào Xoá bỏ sự bất công của chính sách phân phối bình quân, cào bằng đương nhiên sẽ làm cho khoảng cách giàu nghèo tăng hơn. Do đồng nhất sự bình đẳng với sự công bằng, một số người cho rằng sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo là biểu hiện của tình trạng bất công gia tăng. Cũng theo quan niệm của họ, hai mục tiêu công bằng xã hội và tăng trưởng kinh tế không thể đồng thời đạt đ ược; muốn có tăng trưởng kinh tế thì phải chấp nhận sự bất công bằng x ã hội và trong điều kiện hiện nay, cần phải ưu tiên cho sự tăng trưởng kinh tế(1). Khác với quan niệm trên đây, Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng, để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế không nhất thiết phải hy sinh mục tiêu công bằng xã hội. Công bằng xã hội không phải là nhân tố kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế; trái lại, nó là động lực thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Bởi vì, nếu có công bằng xã hội thì lợi ích chính đáng của mỗi người được bảo đảm, mỗi người được hưởng tương xứng với cống hiến của mình; điều đó sẽ kích thích mọi người ra sức cống hiến cho xã hội một cách tự nguyện nhất, từ đó kinh tế sẽ tăng trưởng nhanh. Trong điều kiện kinh tế thị trường, chúng ta không những có thể mà còn cần phải thực hiện công bằng xã hội. Về điều này, Văn kiện Đại hội X của Đảng viết: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển: tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục… giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người”(2). Quan điểm này phù hợp với quan điểm của Hồ Chí Minh cho rằng, “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”(3). Trong điều kiện kinh tế thị trường, công bằng xã hội có thể và cần được bảo đả ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đề tài triết học " BẢO ĐẢM CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÌ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG " ------ Đề tài triết học BẢO ĐẢM CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÌ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG BẢO ĐẢM CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÌ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NGUYỄN NGỌC HÀ (*) Trong bài viết này, tác giả đã phân tích quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam coi công bằng xã hội là mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội. Để có được công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường, cần phải xác định và thực hiện đúng nguyên tắc phân phối phù hợp như Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra. Để phát huy vai tr ò động lực của công bằng xã hội, theo tác giả, cần khắc phục những thiếu sót trong việc thực hiện công bằng xã hội hiện đang còn tồn tại. Công tác lý luận cần h ướng vào việc nghiên cứu và giải quyết nhiệm vụ đó. Mở đầu Sự phát triển của một quốc gia không chỉ thể hiện ở sự phát triển về kinh tế, mà còn thể hiện ở sự phát triển về xã hội. Sự phát triển về kinh tế và sự phát triển về mặt xã hội có liên quan mật thiết với nhau. Công bằng xã hội là một nội dung quan trọng trong sự phát triển về mặt xã hội. Trong một xã hội có tình trạng bất công bằng, người bị đối xử bất công sẽ không thể phát huy hết tính tích cực của mình; hơn nữa, họ luôn đấu tranh đòi công bằng, cuộc đấu tranh này không tránh khỏi gây bất ổn định xã hội. Vì vậy, nếu quốc gia nào chỉ chú trọng phát triển về kinh tế mà không chú trọng bảo đảm công bằng xã hội, thì sự phát triển về kinh tế của quốc gia đó sẽ không bền vững. 1. Quan điểm coi công bằng xã hội là mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội ở Việt Nam Công bằng xã hội luôn được Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam coi vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Trong thời kỳ phong kiến và thuộc địa, tình trạng bất công bằng rất nghiêm trọng. Nhờ giương cao ngọn cờ công bằng mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ của đông đảo quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh xoá bỏ chế độ phong kiến và thuộc địa, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam đã thực hiện ngay hàng loạt chính sách nhằm xoá bỏ tình trạng bất công do xã hội trước để lại, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Giống như các nước xã hội chủ nghĩa khác trước đây, trước thời kỳ đổi mới, Việt Nam cũng chủ trương quốc hữu hoá và tập thể hoá các tư liệu sản xuất chủ yếu với hy vọng vừa có tăng tr ưởng kinh tế, vừa có công bằng xã hội. Vào những năm đầu của thời kỳ này, thành tựu trong việc xoá bỏ bất công bằng xã hội là rất to lớn. Đặc biệt, nhờ chính sách cải cách ruộng đất nên ước mơ “người cày có ruộng” của hàng triệu nông dân đã trở thành hiện thực. Tuy nhiên, sau một thời gian không lâu, sản xuất lại trở nên trì trệ, do đó đời sống nhân dân thấp kém và đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội. Nguyên nhân của tình hình sản xuất trở nên trì trệ là gì? Chắc chắn nó có nguyên nhân ở chỗ người lao động không hoàn toàn phấn khởi để phát huy hết tính tích cực của mình. Nhưng vì sao người lao động lại không hoàn toàn phấn khởi để phát huy hết tính tích cực của mình? Đó là vì lợi ích chính đáng của họ chưa được đảm bảo, hay nói cách khác, vì vẫn còn sự bất công bằng xã hội. Sự bất công của chế độ thực dân và phong kiến được xoá bỏ thì bất công mới lại nảy sinh, đó là sự phân phối bình bằng. quân, cào Từ năm 1986, nhờ thực hiện chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, Việt Nam đã thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và có được sự phát triển vượt bậc về nhiều mặt: kinh tế phát triển với tốc độ cao, xã hội ổn định, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện hơn. Sở dĩ chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường đem lại sự phát triển vượt bậc như vậy là vì chủ trương đó đã góp phần khắc phục sự bất công của chính sách phân phối bằng. bình quân, cào Xoá bỏ sự bất công của chính sách phân phối bình quân, cào bằng đương nhiên sẽ làm cho khoảng cách giàu nghèo tăng hơn. Do đồng nhất sự bình đẳng với sự công bằng, một số người cho rằng sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo là biểu hiện của tình trạng bất công gia tăng. Cũng theo quan niệm của họ, hai mục tiêu công bằng xã hội và tăng trưởng kinh tế không thể đồng thời đạt đ ược; muốn có tăng trưởng kinh tế thì phải chấp nhận sự bất công bằng x ã hội và trong điều kiện hiện nay, cần phải ưu tiên cho sự tăng trưởng kinh tế(1). Khác với quan niệm trên đây, Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng, để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế không nhất thiết phải hy sinh mục tiêu công bằng xã hội. Công bằng xã hội không phải là nhân tố kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế; trái lại, nó là động lực thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Bởi vì, nếu có công bằng xã hội thì lợi ích chính đáng của mỗi người được bảo đảm, mỗi người được hưởng tương xứng với cống hiến của mình; điều đó sẽ kích thích mọi người ra sức cống hiến cho xã hội một cách tự nguyện nhất, từ đó kinh tế sẽ tăng trưởng nhanh. Trong điều kiện kinh tế thị trường, chúng ta không những có thể mà còn cần phải thực hiện công bằng xã hội. Về điều này, Văn kiện Đại hội X của Đảng viết: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển: tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục… giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người”(2). Quan điểm này phù hợp với quan điểm của Hồ Chí Minh cho rằng, “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”(3). Trong điều kiện kinh tế thị trường, công bằng xã hội có thể và cần được bảo đả ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tiểu luận nghiên cứu đề tài tiểu luận triết học kinh tế chính trị triết học mác lênin chủ nghĩa xã hội đường lối cách mạng lý luận triết họcGợi ý tài liệu liên quan:
-
27 trang 349 2 0
-
112 trang 300 0 0
-
Tiểu luận triết học - Ý thức và vai trò của ý thức trong đời sống xã hội
13 trang 291 0 0 -
14 trang 284 0 0
-
Bài tiểu luận: Phật giáo và sự ảnh hưởng ảnh hưởng của nó đến đời sống tinh thần của người Việt Nam
18 trang 275 1 0 -
Tiểu luận triết học - Vận dụng quan điểm cơ sở lý luận về chuyển đổi nền kinh tế thị trường
17 trang 254 0 0 -
30 trang 244 0 0
-
Tiểu luận Triết học: Học thuyết Âm Dương và Văn hóa Trọng Âm của người Việt
26 trang 239 0 0 -
20 trang 237 0 0
-
Bài thuyết trình: Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về Chủ nghĩa Xã hội
42 trang 231 0 0