Danh mục

Đề tài triết học TƯ TUỞNG TRIẾT HỌC TRẦN THÁI TÔNG

Số trang: 13      Loại file: pdf      Dung lượng: 250.07 KB      Lượt xem: 30      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bài viết phân tích triết học Phật giáo Trần Thái Tông trên ba khía cạnh cơ bản: bản thể luận, nhận thức luận và nhân sinh quan. Theo các tác giả, Trần Thái Tông không chỉ là một vị vua anh hùng dám xả thân vì nghĩa và vì quốc gia xã tắc, mà còn là một triết gia với những tư tưởng độc đáo, đặc sắc về triết học Phật giáo. Trong đó, chúng ta phải đặc biệt kể đến sự kết hợp hài hoà giữa chủ nghĩa yêu nước với tinh thần nhập thế cao cả, đem đạo...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đề tài triết học " TƯ TUỞNG TRIẾT HỌC TRẦN THÁI TÔNG " ---------------  --------------- Đề tài triết học TƯ TUỞNG TRIẾT HỌC TRẦN THÁI TÔNG TƯ TUỞNG TRIẾT HỌC TRẦN THÁI TÔNG DOÃN CHÍNH(*) NGUYỄN NGỌC PHƯỢNG(**) Bài viết phân tích triết học Phật giáo Trần Thái Tông trên ba khía cạnh cơ bản: bản thể luận, nhận thức luận và nhân sinh quan. Theo các tác giả, Trần Thái Tông không chỉ là một vị vua anh hùng dám xả thân vì nghĩa và vì quốc gia xã tắc, mà còn là một triết gia với những tư tưởng độc đáo, đặc sắc về triết học Phật giáo. Trong đó, chúng ta phải đặc biệt kể đến sự kết hợp hài hoà giữa chủ nghĩa yêu nước với tinh thần nhập thế cao cả, đem đạo vào đời để cứu dân độ thế của ông. Giá trị của tư tưởng triết học Trần Thái Tông không chỉ là chấm dứt sự tản mát về tư tưởng giữa các dòng thiền cuối thời Lý, mà còn là một trong những tiền đề tư tưởng cho sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Trong sự tiến triển nội tại của Thiền tông Việt Nam, triết học Trần Thái Tông ra đời không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên, mà có cội nguồn sâu xa từ đặc điểm của lịch sử xã hội Việt Nam thế kỷ XII - XIII và là sự kế thừa những yếu tố của các dòng thiền trước đó, như thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci), thiền phái Vô Ngôn Thông, thiền phái Thảo Đường. Những biến đổi trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội cuối thời Lý - đầu thời Trần đã làm nảy sinh một đòi hỏi là cần phải có sự thống nhất về mặt chính trị - xã hội; và tương ứng với đó là sự biến đổi và thống nhất về mặt tư tưởng. Nếu trọng trách thứ nhất do Trần Thủ Độ đảm nhiệm, thì trọng trách thứ hai do Trần Thái Tông đứng ra gánh vác. Đây cũng chính l à lý do khiến cho đến thời Trần, cả ba thiền phái thời Lý là Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường gần như biến mất và cùng với đó, học thuyết Không hư của Trần Thái Tông với Khóa hư lục nổi tiếng ra đời. Đó là một học thuyết tương đối hoàn chỉnh và chặt chẽ, bao gồm cả bản thể luận, nhận thức luận và triết lý đạo đức - nhân sinh; là sự tổng hợp, dung hòa các yếu tố Thiền, Tịnh, Nho và Lão, trên cơ sở nòng cốt là Thiền, tạo nên một bước phát triển mới cho thiền học Việt Nam(1). Về bản thể luận, không nằm ngoài điểm cốt yếu và khuynh hướng chung của thiền học, Trần Thái Tông cũng lấy cái tâm l àm điểm xuất phát cho tư tưởng của mình; và trên cơ sở luận giải về cái tâm ấy, ông đào sâu, tìm kiếm lời giải đáp cho những vấn đề triết học khác, như “ngộ”, “kiến tính”, “sinh tử”, “giải thoát”, “Niết bàn”... Tâm này là cái tâm ban đ ầu, mà trong học thuyết của mình, Trần Thái Tông thường gọi nó bằng khái niệm không, hư. Theo ông, bản thể, khởi nguyên, cội nguồn của vũ trụ, của vạn vật chính là không (Sunya, 空), hư (akasa, 虛?). Không chính là hư và ngược lại, hư cũng là không; có điều, không bao trùm tất cả, hướng đến cái khách quan bên ngoài con người, tức vũ trụ chưa từng sinh diệt, còn hư là sự thể hiện của không trong tâm mỗi người, tức là hướng đến mặt chủ quan bên trong. Trong Phổ thuyết tứ sơn, Trần Thái Tông viết: “Do không khởi vọng, vọng thành sắc, sắc tự chân không. Thị vọng tòng không, không hiện vọng, vọng sinh chúng sắc”(2). Theo Trần Thái Tông, từ không xuất hiện vọng (không khởi vọng, không hiện vọng). Sự xuất hiện của vọng từ không làm liên tưởng đến hình ảnh mặt nước hồ vốn phẳng lặng, yên ả, bỗng một làn gió thổi qua làm gợn lên vô vàn những con sóng lăn tăn; sự xuất hiện của những con sóng ấy chính là vọng từ không mà sinh khởi. Vọng (妄?) ở đây được hiểu là cái xuyên tạc, ảo ảnh, hư dối, huyễn hoặc, lầm lẫn, không đúng sự thật, là vô minh (無明?). Vô minh, theo bản thể không, cũng là vọng tòng không, không hiện vọng. Từ vọng sinh chúng sắc, cũng có nghĩa là từ vô minh sinh ra thế giới hình danh sắc tướng. Ở Trần Thái Tông, vọng không chỉ là nguyên nhân làm xuất hiện thế giới hiện tượng mà ngay cả con người và các sinh vật cũng đều do vọng sinh ra, ông viết: “Tri kỳ chúng sinh huyễn cấu, tòng vọng nhi sinh”(3), có nghĩa là chúng sinh được cấu tạo một cách ảo ảnh, theo vọng mà sinh ra. Nhưng, ở con người, vọng còn là niệm. Nếu như ở trên, vọng là nguyên nhân xuất hiện của thế giới hiện tượng, thì niệm là nguyên nhân xuất hiện của cái ngã, tức con người cá nhân. Niệm không còn dừng lại ở góc độ một hoạt động diễn ra nơi tâm thức con người nữa, mà với Trần Thái Tông, niệm được kiến giải từ cái nhìn bản thể luận. Từ bản thể nguyên sơ, thái hư ban đầu, niệm khởi hiện, cùng sự nhóm tụ của tứ đại và ngũ uẩn mà sinh ra sự dối lầm nơi thể mạo con người. Nếu như do niệm khởi mà con người phải chịu cảnh ngụp lặn, nổi trôi trong vòng luân hồi sinh tử triền miên, thì để giải thoát, Trần Thái Tông quan niệm rằng, cần phải thủ tiêu niệm để đạt tới cái tâm vô niệm. Chỉ có ai biến tâm của mình thành vô niệm thì mới vượt lên được vòng sinh tử luân hồi, nghiệp báo. Ở Trần Thái Tông, bản thể còn là Phật tính (buddha-svabhava, 佛 性), cũng được gọi là chân như, tức cái tính chân thực, chưa hề biến cải, chẳng sinh chẳng diệt, là mầm thiện, mầm giác ngộ sẵn có ở mỗi người. Phật tính còn được Trần Thái Tông gọi bằng nhiều tên khác nhau, như bát nhã thiện căn, bồ đề giác tính, bản lai diện mục, bản tâm, tâm Phật, pháp thân … Điểm độc đáo ở Trần Thái Tông là đã đưa ra cách lý giải mới về sắc thân con người trên cơ sở kế thừa khuynh hướng hòa đồng, dung hợp tư tưởng giữa Phật giáo với Nho giáo và triết lý Âm dương. Điều này thể hiện khá rõ nét trong Phổ thuyết tứ sơn. Ông viết: “Gửi hình hài ở tinh anh cha mẹ, nhờ thai nghén nuôi dưỡng ở khí âm dương. Hơn hết tam tài mà đứng giữa”(4). Đồng thời cho thấy, dù trên cơ sở kế thừa, hợp nhất những quan điểm đã có từ trước, Trần Thái Tông vẫn thể hiện một sự sáng tạo, độc đáo riêng có của mình chứ không lệ thuộc vào lối mòn của kinh sách. Chỉ có ai nhận thức được thực tướng vô tự tính của vạn pháp và lý vô ngã của con người thì mới đạt đến trạng thái thấu suốt tâm hư, tức giác ngộ và gi ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: