Dịch vụ hệ sinh thái biển hướng tới phát triển bền vững: Nhu cầu nghiên cứu lượng giá ở Việt Nam
Số trang: 3
Loại file: pdf
Dung lượng: 171.77 KB
Lượt xem: 12
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết trình bày tổng quan về một số HST có giá trị tiêu biểu ở biển Việt Nam cùng một ví dụ về lượng giá dịch vụ HST biển ở một số đảo, từ đó xác định nhu cầu cơ bản trong nghiên cứu và lượng giá HST biển cần thực hiện trong thời gian tới.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Dịch vụ hệ sinh thái biển hướng tới phát triển bền vững: Nhu cầu nghiên cứu lượng giá ở Việt Nam Kỷ yếu Hội nghị: Nghiên cứu cơ bản trong “Khoa học Trái đất và Môi trường” DOI: 10.15625/vap.2019.000129 DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI BIỂN HƯỚNG TỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG: NHU CẦU NGHIÊN CỨU LƯỢNG GIÁ Ở VIỆT NAM Trần Đình Lân Viện Tài nguyên và Môi trường biển, Viện Hàn lâm KH&CN VN, Email: lantd@imer.vast.vn TÓM TẮT Dịch vụ hệ sinh thái được quan tâm nghiên cứu đối với các hệ sinh thái (HST) trên lục địa, đặc biệt các hệ sinh thái rừng, và đã đạt được những kết quả ứng dụng trong công tác quản lý, phục hồi và phát triển các HST. Tuy nhiên, đối với các biển Việt Nam, nghiên cứu các dịch vụ và lượng giá dịch vụ HST còn chưa được quan tâm nhiều. Một số nghiên cứu lượng giá các dịch vụ tập trung vào HST rừng ngập mặn ở các khu bảo tồn hoặc dự trữ sinh quyển. Gần đây, có thêm một số nghiên cứu lượng giá các dịch vụ HST cỏ biển, đầm phá, san hô ở một số vùng biển nhưng còn khá nhiều hạn chế liên quan đến phương pháp, chuỗi số liệu, biến động các giá trị theo thời gian… Báo cáo này trình bày tổng quan về một số HST có giá trị tiêu biểu ở biển Việt Nam cùng một ví dụ về lượng giá dịch vụ HST biển ở một số đảo, từ đó xác định nhu cầu cơ bản trong nghiên cứu và lượng giá HST biển cần thực hiện trong thời gian tới. Từ khóa: Hệ sinh thái, dịch vụ, lượng giá, biển Việt Nam. 1. MỞ ĐẦU Với vùng biển rộng lớn trên một triệu km2, chiều dài bờ biển trải qua 13 vĩ độ, Việt Nam rất đa dạng hệ sinh thái biển phân bố trên 114 cửa sông, 48 vịnh, 12 đầm phá, trên 3000 hòn đảo và hai hệ thống sông lớn: Hồng và Mekong. Các HST bờ và biển cũng chịu ảnh hưởng ngày càng tăng không những của các quá trình tự nhiên, khí hậu mà còn của các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội ở vùng bờ, trên biển đảo và trong lục địa. Các ảnh hưởng tiêu cực làm suy thoái các HST, suy giảm giá trị dịch vụ của HST dẫn đến mất cân bằng sinh thái và sử dụng kém bền vững. Để hướng tới sử dụng và quản lý bền vững các HST, nhiều công cụ đã được nghiên cứu phát triển, trong đó có lượng giá các dịch vụ HST thuộc nhóm công cụ kinh tế là công cụ khá mạnh và ngày càng được sử dụng rộng rãi trên thế giới và bắt đầu được phát triển ở Việt Nam. Nhận dạng và lượng giá các giá trị dịch vụ HST vùng bờ và biển ở Việt Nam mới được phát triển gần đây và tập trung vào các HST rừng ngập mặn trong các khu bảo tồn biển và vùng bờ. Mới đây có thêm một nghiên cứu lượng giá kinh tế các HST ở một số đảo tiên tiêu trên biển Việt Nam. Mặc dù có những kết quả khả quan, khẳng định được các phương pháp nghiên cứu phù hợp, xác định được giá trị bằng tiền của nhiều nhóm giá trị sử dụng trực tiếp và gián tiếp nhưng nhiều hạn chế cũng bộc lộ do các nghiên cứu về dịch vụ và lượng giá giá trị dịch vụ HST biển còn rất hạn chế ở Việt Nam. Vì vậy, bằng phân tích tổng luận, báo cáo này khái quát về các HST biển tiêu biểu ở Việt Nam, đồng thời cũng nhận dạng các hạn chế và nhu cầu nghiên cứu các dịch vụ HST và lượng giá chúng phục vụ sử dụng, quản lý và nâng cao nhận thức của cộng đồng hướng tới biển Việt Nam xanh. 2. TỔNG QUAN VỀ CÁC HST BIỂN TIÊU BIỂU Ở VIỆT NAM Rạn san hô: HST này tập trung chủ yếu ở vùng biển miền Trung và các đảo. Rạn san hô phân bố từ vùng triều thấp đến độ sâu 40-50m, rộng từ vài mét đến 200m, độ phủ san hô sống từ vài % đến 90 %. Ở vùng biển phía Bắc, rạn dạng vòng không điển hình hoặc phân bố rải rác không tập trung thành rạn. HST san hô có đa dạng sinh học cao và có nhiều loài có giá trị kinh tế, đặc biệt giá trị phi thực phẩm (mỹ phẩm và dược phẩm…). Rừng ngập mặn: với khoảng 94 loài phân bổ ở hầu khắc các vùng triều của sông và một số hải đảo, đa dạng sinh học cao, năng suất sinh học và hải sản rất cao, một số khu rừng ngập mặn đã được 256 Kỷ yếu Hội nghị: Nghiên cứu cơ bản trong “Khoa học Trái đất và Môi trường” công nhận và thiết lập thành các khu có giá trị bảo tồn như Xuân Thủy (Nam Định), Cà Mau (Cà Mau), Cần Giờ (TP Hồ Chí Minh)… Cỏ biển: Đã phát hiện 15 loài, HST phân bố tập trung ở miền Trung và một số đảo như Côn Đảo, Phú Quốc, ngoài ra cũng phát triển ở các vùng triều kéo xuống đến 5m nước dưới triều. HST cỏ biển là nơi sinh cơ của nhiều loài sinh vật biển và là thức ăn của loài Dugong (bò biển – động vật có vú quí hiếm). Bãi triều: diện tích rộng lớn tập trung ở miền Bắc và miền Nam. Có trên 1000 loài động thực vật sinh sống, trong đó sinh vật đáy chiếm trên 50 %. Đây cũng là nơi đánh bắt các loài nhuyễn thể có giá trị kinh tế cao. Bãi cát biển: Phân bố ở khắp các vùng bờ biển và đảo, mặc dù đa dạng sinh vật không cao nhưng lại là bãi đẻ của một số loài sinh vật quí hiếm như rùa biển, đồng thời có giá trị tài nguyên du lịch nổi bật. Hồ nước mặn: chủ yếu phân bố ở Cát Bà – Hạ Long, chưa được điều tra nghiên cứu nhiều nhưng có tiềm năng lớn về nghiên cứu tiến hóa ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Dịch vụ hệ sinh thái biển hướng tới phát triển bền vững: Nhu cầu nghiên cứu lượng giá ở Việt Nam Kỷ yếu Hội nghị: Nghiên cứu cơ bản trong “Khoa học Trái đất và Môi trường” DOI: 10.15625/vap.2019.000129 DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI BIỂN HƯỚNG TỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG: NHU CẦU NGHIÊN CỨU LƯỢNG GIÁ Ở VIỆT NAM Trần Đình Lân Viện Tài nguyên và Môi trường biển, Viện Hàn lâm KH&CN VN, Email: lantd@imer.vast.vn TÓM TẮT Dịch vụ hệ sinh thái được quan tâm nghiên cứu đối với các hệ sinh thái (HST) trên lục địa, đặc biệt các hệ sinh thái rừng, và đã đạt được những kết quả ứng dụng trong công tác quản lý, phục hồi và phát triển các HST. Tuy nhiên, đối với các biển Việt Nam, nghiên cứu các dịch vụ và lượng giá dịch vụ HST còn chưa được quan tâm nhiều. Một số nghiên cứu lượng giá các dịch vụ tập trung vào HST rừng ngập mặn ở các khu bảo tồn hoặc dự trữ sinh quyển. Gần đây, có thêm một số nghiên cứu lượng giá các dịch vụ HST cỏ biển, đầm phá, san hô ở một số vùng biển nhưng còn khá nhiều hạn chế liên quan đến phương pháp, chuỗi số liệu, biến động các giá trị theo thời gian… Báo cáo này trình bày tổng quan về một số HST có giá trị tiêu biểu ở biển Việt Nam cùng một ví dụ về lượng giá dịch vụ HST biển ở một số đảo, từ đó xác định nhu cầu cơ bản trong nghiên cứu và lượng giá HST biển cần thực hiện trong thời gian tới. Từ khóa: Hệ sinh thái, dịch vụ, lượng giá, biển Việt Nam. 1. MỞ ĐẦU Với vùng biển rộng lớn trên một triệu km2, chiều dài bờ biển trải qua 13 vĩ độ, Việt Nam rất đa dạng hệ sinh thái biển phân bố trên 114 cửa sông, 48 vịnh, 12 đầm phá, trên 3000 hòn đảo và hai hệ thống sông lớn: Hồng và Mekong. Các HST bờ và biển cũng chịu ảnh hưởng ngày càng tăng không những của các quá trình tự nhiên, khí hậu mà còn của các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội ở vùng bờ, trên biển đảo và trong lục địa. Các ảnh hưởng tiêu cực làm suy thoái các HST, suy giảm giá trị dịch vụ của HST dẫn đến mất cân bằng sinh thái và sử dụng kém bền vững. Để hướng tới sử dụng và quản lý bền vững các HST, nhiều công cụ đã được nghiên cứu phát triển, trong đó có lượng giá các dịch vụ HST thuộc nhóm công cụ kinh tế là công cụ khá mạnh và ngày càng được sử dụng rộng rãi trên thế giới và bắt đầu được phát triển ở Việt Nam. Nhận dạng và lượng giá các giá trị dịch vụ HST vùng bờ và biển ở Việt Nam mới được phát triển gần đây và tập trung vào các HST rừng ngập mặn trong các khu bảo tồn biển và vùng bờ. Mới đây có thêm một nghiên cứu lượng giá kinh tế các HST ở một số đảo tiên tiêu trên biển Việt Nam. Mặc dù có những kết quả khả quan, khẳng định được các phương pháp nghiên cứu phù hợp, xác định được giá trị bằng tiền của nhiều nhóm giá trị sử dụng trực tiếp và gián tiếp nhưng nhiều hạn chế cũng bộc lộ do các nghiên cứu về dịch vụ và lượng giá giá trị dịch vụ HST biển còn rất hạn chế ở Việt Nam. Vì vậy, bằng phân tích tổng luận, báo cáo này khái quát về các HST biển tiêu biểu ở Việt Nam, đồng thời cũng nhận dạng các hạn chế và nhu cầu nghiên cứu các dịch vụ HST và lượng giá chúng phục vụ sử dụng, quản lý và nâng cao nhận thức của cộng đồng hướng tới biển Việt Nam xanh. 2. TỔNG QUAN VỀ CÁC HST BIỂN TIÊU BIỂU Ở VIỆT NAM Rạn san hô: HST này tập trung chủ yếu ở vùng biển miền Trung và các đảo. Rạn san hô phân bố từ vùng triều thấp đến độ sâu 40-50m, rộng từ vài mét đến 200m, độ phủ san hô sống từ vài % đến 90 %. Ở vùng biển phía Bắc, rạn dạng vòng không điển hình hoặc phân bố rải rác không tập trung thành rạn. HST san hô có đa dạng sinh học cao và có nhiều loài có giá trị kinh tế, đặc biệt giá trị phi thực phẩm (mỹ phẩm và dược phẩm…). Rừng ngập mặn: với khoảng 94 loài phân bổ ở hầu khắc các vùng triều của sông và một số hải đảo, đa dạng sinh học cao, năng suất sinh học và hải sản rất cao, một số khu rừng ngập mặn đã được 256 Kỷ yếu Hội nghị: Nghiên cứu cơ bản trong “Khoa học Trái đất và Môi trường” công nhận và thiết lập thành các khu có giá trị bảo tồn như Xuân Thủy (Nam Định), Cà Mau (Cà Mau), Cần Giờ (TP Hồ Chí Minh)… Cỏ biển: Đã phát hiện 15 loài, HST phân bố tập trung ở miền Trung và một số đảo như Côn Đảo, Phú Quốc, ngoài ra cũng phát triển ở các vùng triều kéo xuống đến 5m nước dưới triều. HST cỏ biển là nơi sinh cơ của nhiều loài sinh vật biển và là thức ăn của loài Dugong (bò biển – động vật có vú quí hiếm). Bãi triều: diện tích rộng lớn tập trung ở miền Bắc và miền Nam. Có trên 1000 loài động thực vật sinh sống, trong đó sinh vật đáy chiếm trên 50 %. Đây cũng là nơi đánh bắt các loài nhuyễn thể có giá trị kinh tế cao. Bãi cát biển: Phân bố ở khắp các vùng bờ biển và đảo, mặc dù đa dạng sinh vật không cao nhưng lại là bãi đẻ của một số loài sinh vật quí hiếm như rùa biển, đồng thời có giá trị tài nguyên du lịch nổi bật. Hồ nước mặn: chủ yếu phân bố ở Cát Bà – Hạ Long, chưa được điều tra nghiên cứu nhiều nhưng có tiềm năng lớn về nghiên cứu tiến hóa ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Khoa học Trái đất và Môi trường Hệ sinh thái Dịch vụ hệ sinh thái Hệ sinh thái rừng Dự trữ sinh quyểnTài liệu liên quan:
-
149 trang 247 0 0
-
103 trang 102 0 0
-
Bài thuyết trình Tiếp cận hệ sinh thái trong quản lý nghề cá ven bờ
34 trang 82 0 0 -
9 trang 81 0 0
-
Thực vật dân tộc học: một bài học cho thế hệ tương lai Việt Nam
5 trang 77 1 0 -
Giáo trình Hệ sinh thái rừng nhiệt đới: Phần 1
128 trang 76 0 0 -
362 trang 71 0 0
-
Hệ sinh thái kinh tế số tại Việt Nam
10 trang 60 0 0 -
Giáo trình Kỹ thuật lâm sinh: Phần 1 - ĐH Lâm Nghiệp
109 trang 42 0 0 -
4 trang 40 0 0