Diệp Minh Châu
Sinh
10 tháng 2, 1919 Bến Tre
Mất
12 tháng 7, 2002 (83 tuổi)
Quốc tịch
Việt Nam
Diệp Minh Châu (10 tháng 2 năm 1919 - 12 tháng 7 năm 2002) là hoạ sĩ, điêu khắc gia Việt Nam. Ông được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt 1 - 1996).
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Diệp Minh Châu
Diệp Minh Châu
Diệp Minh Châu
Diệp Minh Châu
10 tháng 2, 1919
Sinh
Bến Tre
12 tháng 7, 2002 (83 tuổi)
M ất
Việt Nam
Quốc tịch
Diệp Minh Châu (10 tháng 2 năm 1919 - 12 tháng 7 năm 2002) là hoạ sĩ,
điêu khắc gia Việt Nam. Ông được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn
học nghệ thuật (đợt 1 - 1996).
Mục lục
1 Tiểu sử và sự nghiệp
1.1 Thời kỳ đầu
o
1.2 Tham gia kháng chiến
o
1.3 Sau 1951
o
2 Tác phẩm
3 Triển lãm
4 Tính cách
5 Tham khảo
Tiểu sử và sự nghiệp
Thời kỳ đầu
Ông sinh năm 1919 tại làng chiếu xã Nhơn Thạnh, huyện Giồng Trôm, tỉnh
Bến Tre nay thuộc thị xã Bến Tre, trong một gia đình nông dân [1]. Ngay từ
nhỏ, ông đã ham mê vẽ, nổi tiếng vẽ giỏi và được các bạn gọi là Châu vẽ
[1]
. Năm 15 tuổi, ông về nhà giúp gia đình và gặp Hoàng Tuyển, tác giả bức
tranh Tứ thời, và vẫn giữ niề m đam mê nghệ thuật. Ông ra Hà Nội, theo học
lớp dự bị trường Mỹ thuật Đông Dương, làm thuê để kiếm sống. Học được
một năm, ông trở về quê nhà [2].
Năm 1940, ông đỗ thủ khoa kì thi tuyển Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông
Dương. Để có tiền đóng học phí, ông tiếp tục làm thêm nghề vẽ phông màn
cho các gánh hát ở Hà Nội. Năm 1942, một số tranh của ông như Trăng thu,
Nhớ mong, Hương sắc đã gây được sự chú ý của giới mỹ thuật. Ông đã
giành các giải thưởng tại Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc như: huy chương
đồng cho tranh Văn Miếu (1942), huy chương bạc cho bức tranh lụa Cầu
Nguyện (1943)[3]. Ông tham gia phong trào sinh viên yêu nước. Ông vừa
tham gia phong trào truyền bá chữ Quốc ngữ, vừa vẽ bìa cho các bản nhạc
yêu nước của Lưu Hữu Phước, thiết kế mỹ thuật cho các đêm diễn của ban
kịch Tổng hội sinh viên Hà Nội [1]. Tuy nhiên, ông đã không tốt nghiệp
trường Mỹ thuật do Nhật đảo chính Pháp [2]. Ông trở về quê nhà, tiếp tục vẽ
tranh, tổ chức triển lãm ở Bến Tre và Mỹ Tho, lấy tiền giúp nạn đói ở miền
Bắc. Ông tham gia vào Thanh niên tiền phong và tham gia cướp chính quyền
tại thị xã Bến Tre.
Tham gia kháng chiến
Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, ông ông làm trưởng ban trừ gian huyện
Châu Thành, Bến Tre. Ông ghi lại trong Hồi kí của mình: Hận dân tộc
dâng cao trong tôi, tôi vào nhà xếp bút màu gửi má tôi cất giùm, tôi xé giấy
thông hành, giấy thuế thân rồi đi lãnh mọi công tác mà cách mạng giao
phó [4]. Cuối năm 1946, ông chuyển về liên khu 8, trở thành phóng viên.
Ông đi theo Vệ quốc đoàn tới nhiều nơi như Gò Công, Mỹ Tho, Bến Tre, Sa
Đéc, vùng Đồng Tháp Mười, ghi lại nhiều bức tranh về những cảnh lao động,
sản xuất, chiến đấu như Phong cảnh Đồng Tháp Mười, Lớp học bình dân
trong lán ven rừng, Qua rừng Lá, Du kích qua làng, Chiến sĩ rẽ lau... Trong
thời gian này, ông được biết tới với bức Chiến sĩ Lê Hồng Sơn hy sinh lúc
xung phong (1947), vẽ tại Vàm Nước Trong (Mỏ Cày), bằng chính máu của
người chiến sĩ hy sinh [1] và bức tranh Bác Hồ và 3 thiếu nhi Trung Nam Bắc
vẽ bằng chính máu của mình [4]. Bức tranh Bác Hồ được vẽ trên lụa, và ông
đã gửi một bức thư cho Chủ tịch Hồ Chí Minh (trong bức thư ông gọi Chủ
tịch bằng Cha) bày tỏ khát vọng hoà bình và giải phóng dân tộc.
Năm 1949, ông được chuyển về công tác tại Viện Văn hóa kháng chiến Nam
Bộ do giáo sư Hoàng Xuân Nhị làm Giám đốc tại khu 9. Giữa năm 1950,
ông trở ra Việt Bắc, đi từ Nam Bộ sang Campuchia, Thái Lan rồi Trung
Quốc tới Việt Bắc mất 8 tháng. Ông ở Việt Bắc hơn 6 tháng, sống gần chủ
tịch Hồ Chí Minh. Ở đây ông đã vẽ hơn 30 bức tranh đề tài Bác Hồ như Bố
cục nhà Bác trên đồi (lụa – 1951), Bác làm việc ở nhà sàn Việt Bắc (sơn dầu
– 1951), Bác câu cá bên bờ suối (sơn dầu – 1951), Ánh nắng trưa trước sân
nhà Bác (sơn dầu – 1951)...
Sau 1951
Bức tượng Bác Hồ với thiếu nhi tại thành phố Hồ Chí MInh
Năm 1952, ông được cử sang học điêu khắc Viện Hàn lâm Mỹ thuật Tiệp
Khắc. Trước khi về nước, ông còn đến nghiên cứu về nghệ thuật tượng đài ở
Liên Xô và Ấn Độ trong nhiều tháng. Năm 1956, ông trở thành giảng viên
trường Mỹ thuật Việt Nam cho đến ngày thống nhất đất nước năm 1975.
Ông tu nghiệp tại Ấn Độ một năm (1957). Trong thời gian đó, ông vẫn tiếp
tục sáng tác với hàng loạt tác phẩm đề tài anh hùng cách mạng như Võ Thị
Sáu trước quân thù, Lòng người miền Nam, Căm thù Phú Lợi, Miền Nam bất
khuất, Miền Nam thành đồng, Người mẹ Việt Nam...
Sau 1975, ông trở về thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục sáng tạo và giúp đỡ
nhiều nghệ sĩ trẻ. Lúc cuối đời, ông đã hoàn thành tác phẩm Bác Hồ bên suối
Lê-nin bằng thạch cao và Bác Hồ với thiếu nhi bằng đồng đặt trước trụ sở
Uỷ ban nhân dân TP Hồ Chí Minh [1]. Ông từng giữ chức Chủ tịch danh dự
Hội Mỹ Thuật TPHCM, giảng viên trường Cao đẳng Mỹ thuật VN, Ủy viên
thường vụ Ban chấp hành Hội Mỹ thuật Việt Nam, Chủ tịch Hội Mỹ Thuật
TP.HCM.
Ông qua đời ngày 12 tháng 7 năm 2002 tại thành phố Hồ Chí Minh, hưởng
thọ 83 tuổi. Gia đình ông đã mở nhà lưu niệm mang tên ông để tưởng nhớ
tới ông.[5]
Năm ...