Thời gian gần đây xuất hiện nhiều trường hợp ngộ độc do uống rượu có pha cồn công nghiệp methanol khiến không ít nạn nhân tử vong. Bài viết dưới đây nhằm mục đích nhắc lại về độc tính của methanol, các triệu chứng và dấu hiệu ngộ độc cùng các nguyên tắc chính để việc xử lý cấp cứu được nhanh chóng và chính xác.Methanol là một loại rượu có độc tính cao, thường gặp trong chất dung môi dùng lau kính xe, chất chống đóng băng cho ống dẫn xăng dầu, dung dịch mực in cho máy...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Điều trị ngộ độc cồn công nghiệp Điều trị ngộ độc cồn công nghiệp Thời gian gần đây xuất hiện nhiều trường hợp ngộ độc do uống rượucó pha cồn công nghiệp methanol khiến không ít nạn nhân tử vong. Bài viếtdưới đây nhằm mục đích nhắc lại về độc tính của methanol, các triệu chứngvà dấu hiệu ngộ độc cùng các nguyên tắc chính để việc xử lý cấp cứu đượcnhanh chóng và chính xác. Methanol là một loại rượu có độc tính cao, thường gặp trong chất dung môidùng lau kính xe, chất chống đóng băng cho ống dẫn xăng dầu, dung dịch mực incho máy photocopy, nhiên liệu cho các bếp lò nhỏ, dùng pha sơn và như một chấtdung môi công nghiệp. Hiện nay có thêm những ứng dụng mới cho methanol, nhấtlà việc đề nghị sử dụng nó như một nguồn năng lượng thay thế. Điều trị cho bệnh nhân ngộ độc rượu. Diễn tiến lâm sàng của ngộ độc methanol xảy ra nhiều giờ sau khi uống. Dotình trạng ngộ độc methanol nặng thường liên quan đến sự chậm trễ trong điều trị,việc phân biệt giữa ngộ độc thực sự hay chỉ là nghi ngờ tạo ra nhiều thách thứccho thầy thuốc lâm sàng vì những xét nghiệm, các thuốc giải độc và vấn đề chămsóc đặc biệt không phải lúc nào cũng sẵn có. Liều tử vong của methanol tinh chất ước lượng khoảng 1-2 ml/kg; tuynhiên, đã có báo cáo về trường hợp mù vĩnh viễn và tử vong với liều chỉ khoảng0,1ml/kg (6-10ml ở người lớn). Methanol hấp thu dễ dàng qua ruột, da và phổi; chuyển hóa chậm qua gan.Nồng độ huyết thanh cao nhất xảy ra 30-60 phút sau khi uống. Khoảng 3% liềumethanol được bài tiết qua phổi hoặc bài tiết không thay đổi qua thận. Thời gianbán hủy của methanol kéo dài 30-50 giờ khi điều trị bằng thuốc giải độc. Triệu chứng Triệu chứng đầu tiên của ngộ độc methanol xảy ra từ 12 - 24 giờ sau khiuống, có triệu chứng giống với ngộ độc ethanol, bao gồm chóng mặt, lú lẫn, thấtđiều vận động, yếu cơ, nhức đầu, buồn nôn, nôn và đau bụng. Nhìn chung, cáctriệu chứng này có thể giống say rượu và do nhiễm độc nhẹ do ethanol gây ra. Khi sự chuyển hóa methanol tiếp diễn, toan chuyển hóa do khoảng trốnganion (anion gap) sẽ phát triển. Toan chuyển hóa nặng cùng với những tác độngtrên thị giác là hai điểm chủ yếu của ngộ độc methanol. Người bệnh thường cảmthấy nhìn mờ, nhìn đôi hoặc có rối loạn cảm nhận về màu sắc. Thị trường có thể bịthu hẹp và có khi mất hoàn toàn thị lực. Các rối loạn chức năng thị giác đặc trưngbao gồm giãn đồng tử và mất phản xạ giác mạc. Các triệu chứng và dấu hiệu muộn bao gồm thở nông, tím tái, thở nhanh,hôn mê, co giật, rối loạn điện giải và các thay đổi đa dạng về huyết động học baogồm tụt huyết áp nặng và ngưng tim. Có thể bị mất trí nhớ từ nhẹ đến nặng, lú lẫn,kích thích và diễn tiến đến hôn mê khi toan chuyển hóa càng lúc càng nặng hơn(Suit 1990). Những trường hợp nặng sẽ gây tử vong. Bệnh nhân sống sót có thể bịmù vĩnh viễn hoặc có những di chứng thần kinh khác. Chẩn đoán Ngộ độc methanol khó chẩn đoán khi không khai thác được tiền sử uốngrượu. Chẩn đoán đòi hỏi phải có các yếu tố lâm sàng lẫn kết quả xét nghiệm; tuynhiên khi bệnh nhân hôn mê, không khai thác được bệnh sử sẽ cần đến nhữngthông tin quý giá do người thân và bạn bè đem lại. Ngoài ra, thường rất khó đểphân biệt ngộ độc methanol hoặc ethylene glycol về phương diện lâm sàng. Đo nồng độ methanol trong huyết thanh là cách trực tiếp nhất để chẩn đoánngộ độc. Quyết định xét nghiệm nồng độ methanol trong máu có thể dựa trên yếutố dịch tễ, theo lời khai của bệnh nhân hoặc người đưa đến, hoặc do phát hiệnnhững sản phẩm có chứa methanol tại nơi uống. Những yếu tố khác để nghi ngờnhiễm độc methanol là các dấu hiệu lâm sàng cùng kết quả cận lâm sàng như toanchuyển hóa kèm khoảng trống anion (anion gap) và khoảng trống nồng độ osmol(osmolal gap). Khoảng trống anion (anion gap) trong toan chuyển hóa không xuất hiệnngay sau khi uống methanol và còn có thể gặp ở những ngộ độc khác như ngộ độcsắt, salicylates, ethylene glycol hoặc các bệnh lý khác như đái tháo đường nhiễmceton-acid hay tăng urê huyết. Sự hiện diện của khoảng trống nồng độ osmol(osmolal gap) có thể giúp chẩn đoán ngộ độc methanol; tuy nhiên, cũng chưa thểloại trừ nếu không thấy, do osmolal gap sẽ giảm dần cùng với việc chuyển hóa củamethanol. Các yếu tố khác để chẩn đoán là thay đổi ở mắt bao gồm sung huyết đĩa thị(optic disc) hoặc phù đĩa thị, đôi khi có bạc màu đĩa thị. Điều trị Cần điều trị bằng chất kháng độc tố (antidote) khi nồng độ methanol tronghuyết thanh lớn hơn 20mg/dl trong thời gian ngắn sau khi uống; tuy nhiên, ởnhững nạn nhân được đưa đến muộn, cần phải điều trị ở bất kỳ nồng độ methanolnào khi thấy có biểu hiện của nhiễm độc toàn thân. Tương tự như đối với ethylene glycol, 3 mục tiêu chính của điều trị baogồm xử lý tình trạng toan chuyển hoá, ức chế chuyển hóa của methanol và tăngcường ...