Danh mục

ĐIỀU TRỊ UNG THƯ BIỂU MÔ TẾ BÀO GAN (HCC)

Số trang: 25      Loại file: pdf      Dung lượng: 347.33 KB      Lượt xem: 7      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 12,000 VND Tải xuống file đầy đủ (25 trang) 0

Báo xấu

Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Lựa chọn phương pháp điều trị ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) tùy thuộc vào giai đoạn của bệnh, mức độ rối loạn chức năng gan và xơ gan. Hệ thống phân chia giai đoạn theo Hội ung thư gan lâm sàng Barcelona cung cấp một phác đồ mô tả các lựa chọn phương pháp điều trị có sẵn đối với mỗi giai đoạn của bệnh (Hình 1). Có một vài cuộc tranh luận xung quanh các chiến lược điều trị; những vấn đề này sẽ được đề cập, cùng với việc bổ sung thêm sorafenib vào...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
ĐIỀU TRỊ UNG THƯ BIỂU MÔ TẾ BÀO GAN (HCC) ĐIỀU TRỊ UNG THƯ BIỂU MÔ TẾ BÀO GAN (HCC)Lựa chọn phương pháp điều trị ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) tùy thu ộc vàogiai đoạn của bệnh, mức độ rối loạn chức năng gan và xơ gan. Hệ thống phân chiagiai đoạn theo Hội ung thư gan lâm sàng Barcelona cung cấp một phác đồ mô tảcác lựa chọn phương pháp điều trị có sẵn đối với mỗi giai đoạn của bệnh (Hình 1).Có một vài cuộc tranh luận xung quanh các chiến lược điều trị; những vấn đề nàysẽ được đề cập, cùng với việc bổ sung thêm sorafenib vào trang thiết bị của cácphương pháp trị liệu đối với ung thư biểu mô tế bào gan.I.CÁC QUAN ĐIỂM ĐIỀU TRỊ:1.Điều trị khỏi bệnhLựa chọn để điều trị ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) với ý định chữa khỏibệnh, mặc dù chỉ khả thi ở một thiểu số bệnh nhân, đã góp phần vào việc cải thiệnrõ tỷ lệ sống còn ở cả hai phương thức phẫu thuật và ghép gan, với tỷ lệ sống còn5 năm là 60-70%. Ước tính 10-15% bệnh nhân bị ung thư biểu mô tế bào gan lànhững đối tượng cho phẫu thuật cắt bỏ, và chỉ khoảng 5% đáp ứng các tiêu chuẩnđể ghép gan. Phẫu thuật là một điều trị chuẩn chấp nhận được đối với ung thư biểumô tế bào gan có thể cắt bỏ ở bệnh nhân có chức năng gan được bảo tồn. Có sựtranh luận xung quanh việc can thiệp phẫu thuật, với một số dữ liệu hỗ trợ choviệc sử dụng phương pháp ghép gan đối với dạng bệnh này do tỷ lệ tái phát thấphơn. Tuy nhiên, tỷ lệ sống còn lâu dài tương tự ở cả hai nhóm bệnh nhân cắt ganvà ghép gan, vì vậy có sự quan tâm về nguy c ơ biến chứng lâu dài của trường hợpthứ hai thứ phát do suy giảm miễn dịch. Việc giảm thiểu nguy cơ khi phẫu thuật làmột trọng tâm trong các thử nghiệm lâm sàng. Phương thức soi ổ bụng và phươngthức cắt bỏ khối u bằng sóng radio ít xâm lấn đang được nghiên cứu và hiện nayđã được chấp nhận là những cách tiếp cận chữa khỏi bệnh để điều trị các ung thưbiểu mô tế bào gan kích thước nhỏ. Một phương thức cũ hơn là tiêm ethanolxuyên qua da không được ưa chuộng nữa do các dữ liệu mới đây đã cho thấyphương thức này kém hơn so với cắt bỏ khối u bằng sóng radio ở những bệnhnhân có tổn thương ung thư biểu mô tế bào gan kích thước nhỏ.Theo phương pháp cổ điển, ghép gan được dành cho những bệnh nhân có gan bịbệnh và gan xơ có thể cắt bỏ.Tổ chức UNOS (the United Network for OrganSharing) giúp phân bổ số lượng hạn chế các cơ quan đúng chỗ có sẵn qua việc sửdụng một hệ thống thang điểm, được gọi là hình mẫu đối với bệnh gan giai đoạncuối, giúp điều chỉnh sự phân bổ nguồn hiếm có này - là hạn chế chính đối vớighép gan. Ghép gan bị hạn chế trong phạm vi những bệnh nhân bị ung thư biểumô tế bào gan không có hơn 1 khối u duy nhất có đường kính 5 cm hoặc nhỏ hơn,hoặc 2-3 khối u, mỗi u có đường kính 3 cm hoặc nhỏ hơn, không lan rộng đến cácmạch máu chính và/hoặc không có bệnh di căn. Tỷ lệ sống còn toàn bộ 5 năm saukhi ghép gan có thể cao bằng 75%. Ghép gan từ người hiến tặng còn sống là mộtnguồn gan khác càng ngày càng có thế chấp nhận, mặc dù vẫn còn sự tranh luận.Cách tiếp cận điều trị này đem đến nguy cơ cho cả người hiến tặng và người nhận.2.Điều trị bổ trợ đối với ung thư biểu mô tế bào ganĐến nay, không có điều trị bổ trợ nào có lợi ích đã được chứng minh trong việclàm giảm nguy cơ tái phát sau phẫu thuật cắt bỏ, ghép gan hoặc cắt bỏ khối u bằngsóng radio (RFA). Trước đây, một vài thử nghiệm bổ trợ đã cho thấy kết quả khảquan ban đầu, nhưng những kết quả này không có khả năng tái lập. 2 lựa chọnđiều trị bổ trợ cho ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) đã từng được đánh giá kỹlưỡng nhất là l-131 lipiodol và acyclic retinoid. Trong một nghiên cứu ngẫu nhiênở 43 bệnh nhân, l-131 lipiodol là chất bổ trợ được dùng qua đường động mạch ganđã được so sánh với quan sát sau khi cắt bỏ ung th ư biểu mô tế bào gan. Đã ghinhận sự cải thiện về tỷ lệ sống còn không bệnh trung bình thiên về nhóm dùng l-131 lipiodol (57,2 tháng so với 13,6 tháng; P = .037). Mặc dù sự cải thiện tỷ lệsống còn vào thời điểm trình bày dữ liệu ban đầu, nhưng sự theo dõi lâu dài về thửnghiệm này trong 10 năm không cho thấy lợi ích sống còn đối với những bệnhnhân được điều trị bằng l-131 lipiodol.Trong một nghiên cứu ngẫu nhiên về thuốc acrylic retinoid so với giả dược sauphẫu thuật cắt bỏ ở 89 bệnh nhân, những người được điều trị bằng acrylic retinoidcó tỷ lệ tái phát là 27% so với 49% ở những bệnh nhân dùng giả dược (P = .04)trong giai đoạn theo dõi 38 tháng.Các dữ liệu từ thử nghiệm SHARP đã giúp xác định sorafenib là điều trị chuẩnđối với ung thư biểu mô tế bào gan không thể cắt bỏ. Sẽ phải mất vài năm trướckhi có kết quả của thử nghiệm điều trị bổ trợ với nhiều dự đoán, chọn ngẫu nhi êncác bệnh nhân để dùng sorafenib so với giả dược sau khi phẫu thuật, được tiếptheo bằng phương thức cắt bỏ khối u bằng sóng radio (RFA) nếu có thể đ ược. Mặcdù tác dụng chống tạo mạch của sorafenib đã được thiết lập để ngăn chặn bất k ...

Tài liệu được xem nhiều: