Sự phát triển mạnh mẽ của các cephalosporin trong thập kỷ qua rất đáng được ghi nhận, và tạo ra một nhóm thuốc rất được quan tâm. Mặc dù các cephalosporin đã được phân loại dựa vào cấu trúc hóa học, dược lý lâm sàng, kháng beta - lactamase, hoặc phổ kháng khuẩn, nhưng phân loại theo thế hệ được chấp nhận là rất hữu ích, tuy chưa đầy đủ. Phân loại cephalosporin theo thế hệ dựa vào những đặc trưng tác dụng kháng khuẩn của thuốc. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
ĐỊNH HƯỚNG SỬ DỤNG CÁC CEPHALOSPORIN ĐỊNH HƯỚNG SỬ DỤNG CÁC CEPHALOSPORINSự phát triển mạnh mẽ của các cephalosporin trong thập kỷ qua rất đángđược ghi nhận, và tạo ra một nhóm thuốc rất được quan tâm.Mặc dù các cephalosporin đã được phân loại dựa vào cấu trúc hóa học, dượclý lâm sàng, kháng beta - lactamase, hoặc phổ kháng khuẩn, nhưng phân loạ itheo thế hệ được chấp nhận là rất hữu ích, tuy chưa đầy đủ.Phân loại cephalosporin theo thế hệ dựa vào những đặc trưng tác dụngkháng khuẩn của thuốc.Cephalosporin thế hệ 1, như cefalotin và cefazolin có tác dụng tốt chống vikhuẩn Gram dương, nhưng ít có tác dụng chống vi khuẩn Gram âm. Phầnlớn cầu khuẩn Gram dương (trừ Enterococcus, Staph. aureus khángmethicilin và Staph. epidermidis) nhạy cảm với thuốc. Tuy vậy, ở Việt Namcác chủng vi khuẩn thường có mức kháng kháng sinh cao. Đa số vi khuẩn kỵkhí ở miệng thường nhạy cảm, nhưng nhóm vi khuẩn Bacteroidesfragilisthường kháng thuốc. Tác dụng chốngMoraxella catarrhalis, E. coli, K.pneumoniae và Pr. mirabilis thường là tốt, nhưng hiện nay đã có hiệntượng kháng thuốc ở nhiều nơi tại Việt Nam.Cephalosporin thế hệ 2 có tác dụng chống vi khuẩn Gram âm tốt hơn đôichút nhưng kém hơn nhiều so với cephalosporin thế hệ 3. Một nhóm phụ thếhệ 2 (cefoxitin, cefotetan, cefmetazol) cũng được coi là có tác dụng chốngBacteroides fragilis.Cephalosporin thế hệ 3 nói chung ít có tác dụng chống cầu khuẩn Gramdương hơn thế hệ 1, nhưng có tác dụng tốt hơn nhiều đối với họEnterobacteriaceae kể cả các chủng tiết beta - lactamase. Một nhóm phụ thếhệ 3 ceftazidim, cefoperazon cũng có tác dụng chống Pseudomonasaeruginosa, nhưng ít có tác dụng chống cầu khuẩn Gram dương hơn cácthuốc thế hệ 3 khác. Tác dụng chốngPseudomonas aeruginosa phải đượccân nhắc rất thận trọng vì có sự khác nhau lớn về tỷ lệ kháng thuốc, tùythuộc vào việc sử dụng kháng sinh ở các bệnh viện, các cộng đồng và cácthành phố.Cephalosporin thế hệ 4, như cefepim, có phổ kháng khuẩn rộng so với thuốcthế hệ 3 và có độ bền vững cao đối với sự thủy phân bởi các beta - lactamasequa trung gian thể nhiễm sắc và plasmid. Kháng sinh thế hệ 4 được dùng đểđiều trị đặc hiệu nhiễm trực khuẩn Gram âm ưa khí đã kháng vớicephalosporin thế hệ 3.Cơ chế kháng cephalosporin của vi khuẩnKhả năng kháng cephalosporin của vi khuẩn có thể do kháng sinh không tớiđược các vị trí tác dụng, do biến đổi các protein gắn penicilin (PBP), đíchcủa cephalos-porin, hoặc do các enzym beta - lactamase của vi khuẩn pháhủy vòng beta - lactam làm mất tác dụng của cephalosporin.Sự biến đổi của 2 PBP (1A và 2X) làm cho cephalospo-rin gắn với ái lực thấp hơn, đủ để làm cho Strepto-coccus pneumoniae kháng lại cephalosporin thế hệ 3. Ba PBP có trọnglượng phân tử lớn vốn có ái lực thấp với cephalosporin.Tuy nhiên, cơ chế kháng cephalosporin phổ biến nhất là phá hủycephalosporin bằng cách thủy phân vòng beta - lactam. Nhiều vi khuẩnGram dương tiết một lượng lớn beta - lactamase ra xung quanh, vi khuẩnGram âm cũng sản xuất beta - lactamase nhưng ít hơn.Các cephalosporin nhạy cảm với beta - lactamase ở mức độ khác nhau. Vídụ, trong các cephalosporin thế hệ 1, cefazolin nhạy cảm với sự thủy phânbởi beta - lactamase, do Staph. aureus tiết ra, nhiều hơn so với cefalotin.Cefoxitin, cefuroxim và cephalosporin thế hệ 3 kháng lại sự thủy phân bởibeta - lactamase của vi khuẩn Gram âm hơn cephalosporin thế hệ 1.Cephalosporin thế hệ 3 nhạy cảm với sự thủy phân bởi beta-lactamase (typ I)cảm ứng được thể nhiễm sắc mã hóa.Sự cảm ứng các beta - lactamase typ I này xảy ra khi điều trị nhiễm các trựckhuẩn Gram âm ái khí (đặc biệt là Enterobacter spp.,Citrobacter freundii,Morganella, Serratia, Providencia, và Pseudomonas aeruginosa) bằng cáccephalosporin thế hệ 3 hoặc 2 và/hoặc imi-penem. Việc dùng thuốc này có thể dẫn đến việc kháng tất cả cáccephalosporin thế hệ 3. Tuy nhiên, cephalosporin thế hệ 4, như cefepim, lànhững chất cảm ứng yếu của beta - lactamase typ I và ít bị thủy phân bởibeta lactamase typ I hơn so với thuốc thế hệ 3.Một điều quan trọng cần nhớ là không một cephalosporin nào có tác dụngđáng tin cậy đối với các vi khuẩn sau: Streptococcus pneumoniae khángpenicilin, Staphylococcus aureus kháng methicilin, Staphylococcusepidermidis kháng methicilin và Staphylococcus coagulase - âm tính khác,Enterococ-cus, Listeria monocytogenes, Legionella pneumo-phila, Legionella micdadei, C. difficile, Pseudomonas maltophilia, P. putida,Campylobacter jejuni, các loàiAcinetobacter, và tất nhiên không có tác dụngchống nấm như Candida albicans.Đặc tính chung của cephalosporinCephalexin, cephradin, cefaclor, cefadroxil, loracarbef, cefprozil, cefixim,cefpodoxim proxetil, ceftibuten, và cefuroxim axetil được hấp thu tốt saukhi uống, nên có thể dùng theo đường này. Cefalotin và cefapirin gây đaukhi tiêm bắp nên chỉ dùng tiêm tĩnh mạch. Các thuốc ...