Doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Đà Nẵng, thách thức và giải pháp hội nhập - 4
Số trang: 16
Loại file: pdf
Dung lượng: 348.92 KB
Lượt xem: 5
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Khả năng liên kết yếu cho ta thấy rỏ ràng rằng sự nhỏ lẽ và manh mún trong sản xuất, kinh doanh của các DNNVV, điều này còn dẫn đến một hậu quả còn to lơn hơn đó là sự hạn chế trong chất lượng, hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh của cả DNNVV với các doanh nghiệp lớn, chưa khai thác được lợi thế nhờ vào quy mô của cả hai khu vực này. Sự liên kết còn được thể hiện ở việc thành lập và phát triển các hiệp hội của DNNVV trong thành phố, tuy...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Đà Nẵng, thách thức và giải pháp hội nhập - 4Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com trên cơ sơ cả hai cùng có lợi. Khả năng liên kết yếu cho ta thấy rỏ ràng rằng sự nhỏ lẽ và manh mún trong sản xuất, kinh doanh của các DNNVV, điều này còn dẫn đến một hậu quả còn to lơn hơn đó là sự hạn chế trong chất lượng, hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh của cả DNNVV với các doanh nghiệp lớn, chưa khai thác được lợi thế nhờ vào quy mô của cả hai khu vực này. Sự liên kết còn được thể hiện ở việc thành lập và phát triển các hiệp hội của DNNVV trong thành phố, tuy nhiên hiện những hội này đã hoạt động nhưng chưa thực sự đem lại được hiệu quả rỏ rệt cho nên việc mang lại được lợi ích thiết thực cho các DNNVV khi tham gia vào các hội này là chưa lớn. 3.2. Nguyên nhân dẫn đến những khó khăn và vướng mắc của các DNNVV thành phố Mặc dù Đảng, Nhà nước và chính quyền thành phố đã khẳng định chính sách nhất quán trong việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nưng trong thực tế thì sự việc này diễn ra theo chiều hướng ngược lại, đó chính là sự phân biệt đối xử tong một số cơ quan quản lý nhà nước và giữa các thành phần kinh tế khác nhau (đặc biệt là khu vực DNNVV khu vực dân doanh), nói đúng ra là những mâu thuẩn xuất phát từ lợi ích và thói hách dịch cửa quyền của các cơ quan công quyền. Những mâu thuẫn và phân biệt đối xử này nảy sinh trong quan hệ giao dịch về mặt bằng sản xuất kinh doanh, vay vốn và tiếp cận thông tin thị trường, các DNNVV thành phố thường thiếu và khó khăn về mặt bằng sản xuất, hầu hết loại hình doanh nghiệp này không được ưu tiên về mặt bằng sản xuất, thường phải sử dụng nhà riêng và thuê mướn của tư nhân với giá thuê đất cao, vẫn còn sự phânbiệt. Các doanh nghiệp lớn thuộc khu vực kinh tế quốc doanh thường được ưu đãi về địa điểm và diện tích nhưng về hiệu quả sử dụng thì lại kém vàSimpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com lãng phí. Trong sự phân biệt đối xử này thì không ai khác ngoài các DNNVV khu vực dân doanh phải là người chịu thiệt thòi trên tất cả mọi phương diện. Các DNNVV khu vực dân doanh thường gặp rất nhiều khó khăn trong việc thuê, cũng như mua bán các địa điểm mặt bằng sản xuất, một phần là do thủ tục rất rắc rối phần khác là với số vốn ít ỏi của mình, để có được một mặt bằng kinh doanh tốt là điều không thể. Thứ hai, đó là việc vay vốn rất khó khăn bởi vì nó đòi hỏi DN phải chứng thực được khả năng kinh doanh cũng như khả năng về tài chính của mình, đó là chưa kể đến các thủ tục rất phức tạp, đi vay các cơ quan tín dụng nhà nước tuy lãi suất thấp nhưng rất khó đi vay và làm thủ tục để được vay, lại còn bị giới hạn số tiền được vay, còn đi vay các ngân hàng thì lãi suất cao lại thêm vào các điều kiện ràng buộc rất phức tạp; trong khi đó các doanh nghiệp nhà nước hoặc được bảo trợ của nhà nước thì thực hiện công việc này rất dễ dàng, Nhà nước đã có chính sách hỗ trợ vay vốn tín dụng nhưng việc tiếp cận nguồn vốn này gặp nhiều trở ngại do giá trị thế chấp nhỏ, không có khả năng bảo lãnh tín dụng. Nhiều doanh nghiệp khi thuê đất thì tiền đền bù gần bằng với giá mua đất nhưng lại không được thế chấp để vay vốn. Hiện nay, các khoản vay của các DNNVV của Việt Nam chiếm tới 80% là của các tổ chức phi tài chính và người thân, chỉ có 20% là vay tín dụng từ ngân hàng. Một mặt khác và cũng là vấn đề mấu chốt quan trọng đó là tiếp cận thông tin thị trường, đây cũng là khâu yếu nhất và bị động nhất của các DNNVV thành phố, vấn đề này xuất phát từ hai nguyên nhân; nguyên nhân chủ quan đó là các DN rất thụ động trong việc tìm kiếm thông tin, tin học hóa và phát triển công nghệ yếu, nhiều doanh nghiệp hầuSimpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com như không chú ý tới mặt này; nguyên nhân khách quan đó là việc truyền tải thông tin của các cơ quan chức năng tới các DNNVV là rất yếu, đơn cử đó việc áp dụng hình thức mã vạch trong thuế, việc này đã được tiến hành nhưng lại rất rườm rà và rất lâu. Hệ thống pháp luật và môi trường kinh doanh đang được xây dựng và hoàn thiện để phù hợp với tình hình mới, phù hợp với xu thế, bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu hóa. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận thấy rằng là tuy đã có cơ chế song các cơ chế và chính sách này chưa ổn định, còn nhiều thứ cần phải thay đổi, văn bản pháp quy còn nhiều điểm chồng chéo, còn thiếu rõ ràng, tính hiệu lực chưa cao, thực hiện lúng túng và nhiều sai sót khiến cho các DNNVV thành phố gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm hiểu, vận dụng và chấp hành. Công cuộc cải cách hành chính diễn ra còn chậm, có nơi chỉ là hô khẩu hiệu, từ nhiều cửa nhiều bàn thì nay đã chuyển qua tuy đã là một cửa nhưng lại nhiều dấu, có thể nói cải cách hành chính của Việt Nam chỉ là cái vỏ bề ngoài và còn hô hào theo khẩu hiệu chứ chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của các DNNVV. Mặt khác, đó là thái độ hách dịch, quan liêu, cửa quyền của các cán bộ làm công tác hành chính, một số bệnh thường gặp của các cán bộ này là hiện trạng đi muộn về sớm, làm việc ngoài chức năng và nhiệm vụ của mình, thêm vào đó là tình trạng thâm ô, tham nhũng và ô dù càng khiến cho các DNNVV thành phố đã khốn đốn nay càng lao đao. Quy định tuần làm năm ngày sau vài năm thực hiện cũng bộc lộ không ít bất cập, thời gian làm việc bị rút ngắn, công việc không được giải quyết tăng lên dẫn tới việc ngưng đọng và trì trệ trong công việc. Vi ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Đà Nẵng, thách thức và giải pháp hội nhập - 4Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com trên cơ sơ cả hai cùng có lợi. Khả năng liên kết yếu cho ta thấy rỏ ràng rằng sự nhỏ lẽ và manh mún trong sản xuất, kinh doanh của các DNNVV, điều này còn dẫn đến một hậu quả còn to lơn hơn đó là sự hạn chế trong chất lượng, hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh của cả DNNVV với các doanh nghiệp lớn, chưa khai thác được lợi thế nhờ vào quy mô của cả hai khu vực này. Sự liên kết còn được thể hiện ở việc thành lập và phát triển các hiệp hội của DNNVV trong thành phố, tuy nhiên hiện những hội này đã hoạt động nhưng chưa thực sự đem lại được hiệu quả rỏ rệt cho nên việc mang lại được lợi ích thiết thực cho các DNNVV khi tham gia vào các hội này là chưa lớn. 3.2. Nguyên nhân dẫn đến những khó khăn và vướng mắc của các DNNVV thành phố Mặc dù Đảng, Nhà nước và chính quyền thành phố đã khẳng định chính sách nhất quán trong việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nưng trong thực tế thì sự việc này diễn ra theo chiều hướng ngược lại, đó chính là sự phân biệt đối xử tong một số cơ quan quản lý nhà nước và giữa các thành phần kinh tế khác nhau (đặc biệt là khu vực DNNVV khu vực dân doanh), nói đúng ra là những mâu thuẩn xuất phát từ lợi ích và thói hách dịch cửa quyền của các cơ quan công quyền. Những mâu thuẫn và phân biệt đối xử này nảy sinh trong quan hệ giao dịch về mặt bằng sản xuất kinh doanh, vay vốn và tiếp cận thông tin thị trường, các DNNVV thành phố thường thiếu và khó khăn về mặt bằng sản xuất, hầu hết loại hình doanh nghiệp này không được ưu tiên về mặt bằng sản xuất, thường phải sử dụng nhà riêng và thuê mướn của tư nhân với giá thuê đất cao, vẫn còn sự phânbiệt. Các doanh nghiệp lớn thuộc khu vực kinh tế quốc doanh thường được ưu đãi về địa điểm và diện tích nhưng về hiệu quả sử dụng thì lại kém vàSimpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com lãng phí. Trong sự phân biệt đối xử này thì không ai khác ngoài các DNNVV khu vực dân doanh phải là người chịu thiệt thòi trên tất cả mọi phương diện. Các DNNVV khu vực dân doanh thường gặp rất nhiều khó khăn trong việc thuê, cũng như mua bán các địa điểm mặt bằng sản xuất, một phần là do thủ tục rất rắc rối phần khác là với số vốn ít ỏi của mình, để có được một mặt bằng kinh doanh tốt là điều không thể. Thứ hai, đó là việc vay vốn rất khó khăn bởi vì nó đòi hỏi DN phải chứng thực được khả năng kinh doanh cũng như khả năng về tài chính của mình, đó là chưa kể đến các thủ tục rất phức tạp, đi vay các cơ quan tín dụng nhà nước tuy lãi suất thấp nhưng rất khó đi vay và làm thủ tục để được vay, lại còn bị giới hạn số tiền được vay, còn đi vay các ngân hàng thì lãi suất cao lại thêm vào các điều kiện ràng buộc rất phức tạp; trong khi đó các doanh nghiệp nhà nước hoặc được bảo trợ của nhà nước thì thực hiện công việc này rất dễ dàng, Nhà nước đã có chính sách hỗ trợ vay vốn tín dụng nhưng việc tiếp cận nguồn vốn này gặp nhiều trở ngại do giá trị thế chấp nhỏ, không có khả năng bảo lãnh tín dụng. Nhiều doanh nghiệp khi thuê đất thì tiền đền bù gần bằng với giá mua đất nhưng lại không được thế chấp để vay vốn. Hiện nay, các khoản vay của các DNNVV của Việt Nam chiếm tới 80% là của các tổ chức phi tài chính và người thân, chỉ có 20% là vay tín dụng từ ngân hàng. Một mặt khác và cũng là vấn đề mấu chốt quan trọng đó là tiếp cận thông tin thị trường, đây cũng là khâu yếu nhất và bị động nhất của các DNNVV thành phố, vấn đề này xuất phát từ hai nguyên nhân; nguyên nhân chủ quan đó là các DN rất thụ động trong việc tìm kiếm thông tin, tin học hóa và phát triển công nghệ yếu, nhiều doanh nghiệp hầuSimpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com như không chú ý tới mặt này; nguyên nhân khách quan đó là việc truyền tải thông tin của các cơ quan chức năng tới các DNNVV là rất yếu, đơn cử đó việc áp dụng hình thức mã vạch trong thuế, việc này đã được tiến hành nhưng lại rất rườm rà và rất lâu. Hệ thống pháp luật và môi trường kinh doanh đang được xây dựng và hoàn thiện để phù hợp với tình hình mới, phù hợp với xu thế, bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu hóa. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận thấy rằng là tuy đã có cơ chế song các cơ chế và chính sách này chưa ổn định, còn nhiều thứ cần phải thay đổi, văn bản pháp quy còn nhiều điểm chồng chéo, còn thiếu rõ ràng, tính hiệu lực chưa cao, thực hiện lúng túng và nhiều sai sót khiến cho các DNNVV thành phố gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm hiểu, vận dụng và chấp hành. Công cuộc cải cách hành chính diễn ra còn chậm, có nơi chỉ là hô khẩu hiệu, từ nhiều cửa nhiều bàn thì nay đã chuyển qua tuy đã là một cửa nhưng lại nhiều dấu, có thể nói cải cách hành chính của Việt Nam chỉ là cái vỏ bề ngoài và còn hô hào theo khẩu hiệu chứ chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của các DNNVV. Mặt khác, đó là thái độ hách dịch, quan liêu, cửa quyền của các cán bộ làm công tác hành chính, một số bệnh thường gặp của các cán bộ này là hiện trạng đi muộn về sớm, làm việc ngoài chức năng và nhiệm vụ của mình, thêm vào đó là tình trạng thâm ô, tham nhũng và ô dù càng khiến cho các DNNVV thành phố đã khốn đốn nay càng lao đao. Quy định tuần làm năm ngày sau vài năm thực hiện cũng bộc lộ không ít bất cập, thời gian làm việc bị rút ngắn, công việc không được giải quyết tăng lên dẫn tới việc ngưng đọng và trì trệ trong công việc. Vi ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
luận văn kế tóan mẫu luận văn kinh tế kiến thức kinh tế cách trình bày luận văn luận văn kinh tế hayTài liệu có liên quan:
-
72 trang 264 0 0
-
Giáo trình chứng khoán cổ phiếu và thị trường (Hà Hưng Quốc Ph. D.) - 4
41 trang 222 0 0 -
Báo cáo: Tổ chức bộ máy kế toán và hệ thống kế toán tại Công ty TNHH Hóa Mỹ Phẩm Hòa Hợp
33 trang 126 0 0 -
Báo cáo thực tập: Kế toán tài sản cố định tại công ty Cổ Phần Đầu Tư Và Thương Mại Bách Gia
70 trang 116 0 0 -
112 trang 112 0 0
-
27 trang 100 0 0
-
32 trang 80 0 0
-
30 trang 68 0 0
-
Báo cáo thực tập ngành kế toán
52 trang 68 0 0 -
Luận văn lý thuyết hạch toán lưu chuyển hàng hóa trong doanh nghiệp -7
15 trang 65 0 0