Dòng sông và cuộc đời (Tri nhận của người Việt về sông nước)
Số trang: 3
Loại file: pdf
Dung lượng: 225.55 KB
Lượt xem: 14
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết tiến hành khảo sát một số từ ngữ, biểu thức ẩn dụ, hoán dụ từ nguồn dòng sông để thấy các ý niệm hóa về dòng đời, phân tích những trải nghiệm tự nhiên của con người với môi trường sông nước.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Dòng sông và cuộc đời (Tri nhận của người Việt về sông nước) Sè 10 (192)-2011 ng«n ng÷ & ®êi sèng 31 Ng«n ng÷ víi v¨n ho¸ Dßng s«ng vµ cuéc ®êi (tri nhËn cña ng−êi ViÖt vÒ s«ng n−íc) trÞnh s©m (PGS.TS, §¹i häc S− ph¹m TP HCM) 1. Ngôn ngữ học tri nhận cho rằng, ẩn dụ Tiếng Việt là thao tác của tư duy, mối quan hệ về mặt - Cuộc đời là quán trọ, con người chỉ là lữ nhận thức của con người, được hình dung khách, khi cất tiếng khóc chào đời là chúng ta bằng phép ánh xạ từ miền nguồn sang miền bắt đầu xuất phát, kết thúc cuộc đời là chấm đích. Nói cho rõ hơn, thông qua những trải dứt cuộc hành trình, âm dương đôi ngả, sự nghiệm cụ thể, trực quan, chủ thể kinh lựa chọn là đứng giữa ngã ba đường, mục tiêu nghiệm có thể nhận hiểu những lĩnh vực trừu là đích đến, bước đường công danh, con tượng dựa vào một số đặc điểm tương đồng đường hoạn lộ, khó khăn trong cuộc đời là nào đấy. Đây là nguyên lí mang tính phổ khó khăn trên đường đi, có những ngả rẽ, quát, dù chúng được thiết lập trên những ẩn những bước ngoặt, quá khứ là quãng đường dụ đơn (nguồn - đích), ẩn dụ kép (khái quát - đã qua, tương lai là con đường trước mặt, sự cụ thể) hay ẩn dụ phức (pha trộn). tiến bộ là quãng đường vượt qua… Nhìn vào các tài liệu đại cương, các ẩn dụ Tiếng Anh được đúc kết từ tiếng Anh về cơ bản rất quen -The person leading a life is a traveler thuộc trong tiếng Việt hiện đại, có thể kể: Cái (Con người sống trên đời là một lữ khách), chết là bóng tối, Sự sống là ánh lửa, Thời He got a good start (Ông ta đã có một xuất gian là kẻ hủy diệt, Cuộc đời là một ngày… phát tốt), Death is the end of the Journe (Chết Thế nhưng, cũng không ít trường hợp cùng là kết thúc một cuộc hành trình), Death is xuất phát từ một ẩn dụ cơ sở nhưng các ẩn dụ going to a final destination (Chết là đích đến thứ cấp hữu quan (thuộc ẩn dụ kép) lại có cuối cùng), His purposes are destinations những cách ý niệm hoá khác nhau. (Những mục tiêu của nó là đích đến), Xin chú ý vào ẩn dụ: Cuộc đời là một Difficulties in life are impediments to travel cuộc hành trình. (Khó khăn trong cuộc đời là những trở ngại Nói đến hành trình là nói đến đường đi trên đường đi), Progress is the distance (bộ, sông, biển), không trung những nơi đã traveled (Sự tiến bộ là quãng đường đã vượt qua,phương tiện di chuyển, lữ khách,điểm qua), The means for achieving purposes are xuất phát, điểm đến, mục đích của cuộc hành routes (Những phương tiện để đạt được mục trình, những khó khăn, thuận lợi …những tri đích là những lộ trình) (Z. Kovecses,2 002 ; thức nguồn vừa nhắc là cơ sở giúp ta hiểu G.Lakoff and M.Turner, 1989). các đặc trưng tương ứng của cuộc đời. Xét từ Bên cạnh những đặc điểm chung vừa nêu, góc độ này hình như không có khác biệt mấy hình như tiếng Anh thiên về biểu đạt ẩn dụ trong biểu hiện giữa tiếng Anh và tiếng Việt. đường bộ - đường đời (road), trong khi tiếng Có thể kể ra đây vô số ẩn dụ tương đồng, Việt lại ưa biểu trưng bằng đường sông - thậm chí là đồng nhất: dòng đời (river). Hiển nhiên, một nhận định 32 ng«n ng÷ & ®êi sèng sè 10 (192)-2011 như vậy hoàn toàn không dựa vào sự đối lập tư thế nằm dọc của con người với địa hình và ± (có/không) mà xuất phát từ sự biểu hiện hướng di chuyển, tức hành trình của sông. đậm/nhạt trong mỗi ngôn ngữ. Bằng tư thế thẳng đứng, mặt hướng về Trong tiếng Việt có thể dễ dàng tìm ra sự biển Đông, tức xuôi theo hướng nước chảy từ tương ứng lạ kì giữa các tri thức thuộc về thượng nguồn xuống, lấy vị trí của con người sông nước, rộng hơn là cả một số thực thể làm trung tâm thì bên bờ phải sông là hữu liên quan đến sông nước với tư cách là miền ngạn, bên trái là tả ngạn. Đây là cách định vị ý niệm nguồn với vũ trụ cuộc đời, trong đó có rất quen thuộc, chẳng hạn, để chỉ các phần sát con người cá thể sinh sống, với tư cách là cạnh một mặt phẳng ta có tả biên, hữu biên, miền ý niệm đích. Có thể nhắc đến một số ẩn di chuyển trên đường bộ thì đi thẳng, rẽ trái, dụ cơ sở như: CUÔC ĐỜI LÀ DÒNG quẹo phải…và cũng hoàn toàn tùy thuộc vào SÔNG, ĐỜI NGƯỜI LÀ DÒNG SÔNG, tư thế, chỗ đứng của chủ thể giao tiếp, nhất là ĐỨNG GIỮA HAI DÒNG NƯỚC, TRI hướng và tầm ngắm camera của anh ta. Vẫn THỨC LÀ BIỂN CẢ …và không ít ẩn dụ thứ lấy tư thế thẳng đứng của con người làm căn cấp khác. Ở đây chú ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Dòng sông và cuộc đời (Tri nhận của người Việt về sông nước) Sè 10 (192)-2011 ng«n ng÷ & ®êi sèng 31 Ng«n ng÷ víi v¨n ho¸ Dßng s«ng vµ cuéc ®êi (tri nhËn cña ng−êi ViÖt vÒ s«ng n−íc) trÞnh s©m (PGS.TS, §¹i häc S− ph¹m TP HCM) 1. Ngôn ngữ học tri nhận cho rằng, ẩn dụ Tiếng Việt là thao tác của tư duy, mối quan hệ về mặt - Cuộc đời là quán trọ, con người chỉ là lữ nhận thức của con người, được hình dung khách, khi cất tiếng khóc chào đời là chúng ta bằng phép ánh xạ từ miền nguồn sang miền bắt đầu xuất phát, kết thúc cuộc đời là chấm đích. Nói cho rõ hơn, thông qua những trải dứt cuộc hành trình, âm dương đôi ngả, sự nghiệm cụ thể, trực quan, chủ thể kinh lựa chọn là đứng giữa ngã ba đường, mục tiêu nghiệm có thể nhận hiểu những lĩnh vực trừu là đích đến, bước đường công danh, con tượng dựa vào một số đặc điểm tương đồng đường hoạn lộ, khó khăn trong cuộc đời là nào đấy. Đây là nguyên lí mang tính phổ khó khăn trên đường đi, có những ngả rẽ, quát, dù chúng được thiết lập trên những ẩn những bước ngoặt, quá khứ là quãng đường dụ đơn (nguồn - đích), ẩn dụ kép (khái quát - đã qua, tương lai là con đường trước mặt, sự cụ thể) hay ẩn dụ phức (pha trộn). tiến bộ là quãng đường vượt qua… Nhìn vào các tài liệu đại cương, các ẩn dụ Tiếng Anh được đúc kết từ tiếng Anh về cơ bản rất quen -The person leading a life is a traveler thuộc trong tiếng Việt hiện đại, có thể kể: Cái (Con người sống trên đời là một lữ khách), chết là bóng tối, Sự sống là ánh lửa, Thời He got a good start (Ông ta đã có một xuất gian là kẻ hủy diệt, Cuộc đời là một ngày… phát tốt), Death is the end of the Journe (Chết Thế nhưng, cũng không ít trường hợp cùng là kết thúc một cuộc hành trình), Death is xuất phát từ một ẩn dụ cơ sở nhưng các ẩn dụ going to a final destination (Chết là đích đến thứ cấp hữu quan (thuộc ẩn dụ kép) lại có cuối cùng), His purposes are destinations những cách ý niệm hoá khác nhau. (Những mục tiêu của nó là đích đến), Xin chú ý vào ẩn dụ: Cuộc đời là một Difficulties in life are impediments to travel cuộc hành trình. (Khó khăn trong cuộc đời là những trở ngại Nói đến hành trình là nói đến đường đi trên đường đi), Progress is the distance (bộ, sông, biển), không trung những nơi đã traveled (Sự tiến bộ là quãng đường đã vượt qua,phương tiện di chuyển, lữ khách,điểm qua), The means for achieving purposes are xuất phát, điểm đến, mục đích của cuộc hành routes (Những phương tiện để đạt được mục trình, những khó khăn, thuận lợi …những tri đích là những lộ trình) (Z. Kovecses,2 002 ; thức nguồn vừa nhắc là cơ sở giúp ta hiểu G.Lakoff and M.Turner, 1989). các đặc trưng tương ứng của cuộc đời. Xét từ Bên cạnh những đặc điểm chung vừa nêu, góc độ này hình như không có khác biệt mấy hình như tiếng Anh thiên về biểu đạt ẩn dụ trong biểu hiện giữa tiếng Anh và tiếng Việt. đường bộ - đường đời (road), trong khi tiếng Có thể kể ra đây vô số ẩn dụ tương đồng, Việt lại ưa biểu trưng bằng đường sông - thậm chí là đồng nhất: dòng đời (river). Hiển nhiên, một nhận định 32 ng«n ng÷ & ®êi sèng sè 10 (192)-2011 như vậy hoàn toàn không dựa vào sự đối lập tư thế nằm dọc của con người với địa hình và ± (có/không) mà xuất phát từ sự biểu hiện hướng di chuyển, tức hành trình của sông. đậm/nhạt trong mỗi ngôn ngữ. Bằng tư thế thẳng đứng, mặt hướng về Trong tiếng Việt có thể dễ dàng tìm ra sự biển Đông, tức xuôi theo hướng nước chảy từ tương ứng lạ kì giữa các tri thức thuộc về thượng nguồn xuống, lấy vị trí của con người sông nước, rộng hơn là cả một số thực thể làm trung tâm thì bên bờ phải sông là hữu liên quan đến sông nước với tư cách là miền ngạn, bên trái là tả ngạn. Đây là cách định vị ý niệm nguồn với vũ trụ cuộc đời, trong đó có rất quen thuộc, chẳng hạn, để chỉ các phần sát con người cá thể sinh sống, với tư cách là cạnh một mặt phẳng ta có tả biên, hữu biên, miền ý niệm đích. Có thể nhắc đến một số ẩn di chuyển trên đường bộ thì đi thẳng, rẽ trái, dụ cơ sở như: CUÔC ĐỜI LÀ DÒNG quẹo phải…và cũng hoàn toàn tùy thuộc vào SÔNG, ĐỜI NGƯỜI LÀ DÒNG SÔNG, tư thế, chỗ đứng của chủ thể giao tiếp, nhất là ĐỨNG GIỮA HAI DÒNG NƯỚC, TRI hướng và tầm ngắm camera của anh ta. Vẫn THỨC LÀ BIỂN CẢ …và không ít ẩn dụ thứ lấy tư thế thẳng đứng của con người làm căn cấp khác. Ở đây chú ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tri nhận của người Việt về sông nước Ngôn ngữ học tri nhận Biểu thức ẩn dụ Con người với môi trường sông nước Ẩn dụ trong tiếng ViệtGợi ý tài liệu liên quan:
-
Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học: Quy chiếu thời gian trong tiếng Việt từ góc nhìn Ngôn ngữ học tri nhận
201 trang 166 0 0 -
4 trang 117 0 0
-
Ẩn dụ ý niệm mùa xuân trong thơ Xuân Diệu và thơ Sonnet của William Shakespeare
7 trang 106 0 0 -
Phân tích thành ngữ bốn chữ tiếng Trung chủ đề 'tính cách – thái độ con người'
7 trang 97 0 0 -
Khảo sát ẩn dụ ý niệm cấu trúc của mùa xuân trong thơ tiếng Anh và tiếng Việt
5 trang 90 0 0 -
Ứng dụng lý thuyết ẩn dụ ý niệm trong ngôn ngữ học tri nhận vào việc giảng dạy thành ngữ tiếng Anh
9 trang 84 0 0 -
Nhìn lại một thập niên nghiên cứu áp dụng ngôn ngữ học tri nhận vào giảng dạy ngoại ngữ
7 trang 59 0 0 -
Nghiên cứu thành ngữ Trung - Việt mang thành tố rồng
11 trang 45 1 0 -
Ẩn dụ ý niệm người phụ nữ là món ăn trong Tiếng Việt
8 trang 38 0 0 -
Ẩn dụ ý niệm về cuộc đời trong tiếng Việt nhìn từ miền nguồn màu sắc
12 trang 37 0 0