Đông y với bệnh huyết áp thấpHuyết áp thấp là huyết áp luôn luôn ở mức thấp hơn đa số người bình thường ở cùng lứa tuổi. Huyết áp động mạch phụ thuộc vào thể tích máu của tâm thất trái đẩy vào hệ mạch máu theo đơn vị thời gian (còn gọi là cung lượng tim) và trở kháng đối với lượng máu của mạch máu ngoại vi. - Huyết áp, lưu lượng máu và sức cản ngoại vi có một mối liên quan chặt chẽ với nhau, khi lưu lượng tuần hoàn tăng, sức cản của ngoại vi...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Đông y với bệnh huyết áp thấp Đông y với bệnh huyết áp thấpHuyết áp thấp là huyết áp luôn luôn ở mức thấp hơn đa số người bình thường ở cùng lứatuổi.Huyết áp động mạch phụ thuộc vào thể tích máu của tâm thất trái đẩy vào hệ mạch máutheo đơn vị thời gian (còn gọi là cung lượng tim) và trở kháng đối với lượng máu củamạch máu ngoại vi.- Huyết áp, lưu lượng máu và sức cản ngoại vi có một mối liên quan chặt chẽ với nhau,khi lưu lượng tuần hoàn tăng, sức cản của ngoại vi tăng thì huyết áp sẽ tăng và ngược lại.- Vậy huyết áp thấp là do hai yếu tố tác động chủ yếu lưu lượng tim và sức cản ngoại vixuống dòng lưu lượng tim phụ thuộc vào sức co bóp cơ tim chủ yếu là chức năng bóp củatâm thất trái, sức cản ngoại vi phụ thuộc chủ yếu vào độ đàn hồi của thành mạch máu.Có hai loại huyết áp thấp: huyết áp thấp tiên phát và huyết áp thấp thứ phát.Huyết áp thấp tiên phát (huyết áp thấp tiên phát hoặc huyết áp thấp do thể trạng).Đây là những người có thể trạng đặc biệt, từ nhỏ đến lớn huyết áp vẫn thấp mà không hềcó triệu chứng hoặc biến chứng ở bộ phận nào trong cơ thể, khi gắng sức thì thấy chóngmặt. Đây không coi là bệnh lý và không cần điều trị.Huyết áp thấp thứ phát: Là huyết áp bình thường nhưng sau đó huyết áp bị tụt dần xuốngtới mức được coi là huyết áp thấp. Thường gặp ở những người suy nhược kéo dài, mắccác bệnh thiểu năng tuần hoàn não, lao, nhiễm khuẩn, nhiễm độc kéo dài, thiếu máu kéodài, bệnh nội tiết suy tuyến thượng thận, suy tuyến giáp mạn tính.Những người huyết áp thấp thường thấy các biểu hiện: mệt mỏi, toàn trạng yếu, giảm tậptrung trí lực, hoa mắt, ruồi bay, nhất là khi thay đổi tư thế có thể thoáng ngất hoặc ngất.Nhịp tim nhanh có thể có ngoại tâm thu mạch yếu có khi nhịp chậm, cung lượng timgiảm rõ rệt.Xác định huyết áp thấp dựa vào đo nhiều lần, nhiều tư thế khác nhau thấy huyết áp tâmthu (huyết áp tối đa) thường xuyên dưới 100mmHg là huyết áp thấp. Đặc biệt khi thayđổi tư thế (nằm sang đứng huyết áp tối đa hạ thấp tới mức nguy hiểm dưới 70mmHg).Để điều trị bệnh huyết áp thấp phải nhanh chóng đưa huyết áp trở về vị trí bình thường,sau đó duy trì để tránh tái phát.Y học cổ truyền cho chứng huyết áp thấp thuộc phạm trù “huyễn vậng”Y học cổ truyền cho rằng chứng huyết áp thấp do ngoại cảm gây nên thường biểu hiệnbệnh cấp là biến chứng, thực chứng. Do nội thương gây bệnh hoãn cấp lý chứng – hưchứng, thường do tỳ, vị, can, thận bị tổn thương; khí hư, huyết hư, khí huyết lưỡng hư.Chứng “huyễn vậng” do huyết áp thấp gây nên, nguyên nhân cơ bản do khí huyết hư, tỳthận hư nhưng phổ biến nhất là thể khí huyết lưỡng hư.Tỳ khí hư, huyết hư, vì khí sinh hóa, khí có tác dụng thúc đẩy huyết, khí là thống soái củahuyết, khí hành thì huyết hành, khí tăng giáng mất điều hòa, thanh dương không lên tâmnão mất nuôi dưỡng của huyết, não thiếu sự nuôi dưỡng gây ra chứng đầu váng mắt hoa,sắc mặt nhợt, tay chân yếu run, vô lực.Tùy bệnh mà dùng bài thuốc điều trị cụ thể.Thể khí huyết đều hưChứng trạng: Đầu váng mắt hoa, ù tai, ngại nói, tinh thần mệt mỏi, ngực bí, chất lưỡinhợt, rêu lưỡi mỏng, mạch tế sác.Bài thuốc: Đẳng sâm 15g, ngũ vị tử 10g, sơn thù 12g, cam thảo 10g, mạch môn đông12g, sinh địa 12g, kỷ tử 12g. Sắc uống ngày 1 thang.Thể khí hư dương hưChứng trạng: Sắc mặt trắng bệch, thở gấp, ngại nói, mệt mỏi vô lực, chân tay lạnh, ditinh, hoạt tinh, chất lưỡi bệu, rêu trắng nhợt, mạch trầm tế vô lực.Bài thuốc: Hoàng kỳ 30g, ngũ vị tử 30g, sài hồ bắc 3g, đẳng sâm 30g, mạch môn đông10g. Sắc uống ngày 1 thang.