Với ý tưởng đào tạo con người toàn diện, nền giáo dục Việt Nam tự chuốc lấy một gánh nặng è vai. Một học sinh được gọi là giỏi thì phải giỏi cả toán - lý - hóa, văn - sử - địa. Kết thúc phổ thông thì có sẵn một bộ đề và đáp án thi vào đại học, cho cả người thi lẫn người chấm, vai trò của vận dụng, sáng tạo không có ý nghĩa gì cả. Kết quả là một nghịch lý, ai học giỏi một, hai môn thì có cơ hội tiến bộ, còn...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
ĐƯỜNG ĐẾN VỚI NGHỆ THUẬT
ĐƯỜNG ĐẾN VỚI NGHỆ
THUẬT
Phan Cẩm Thượng
Với ý tưởng đào tạo con người toàn diện, nền giáo dục Việt Nam tự
chuốc lấy một gánh nặng è vai. Một học sinh được gọi là giỏi thì phải
giỏi cả toán - lý - hóa, văn - sử - địa. Kết thúc phổ thông thì có sẵn một
bộ đề và đáp án thi vào đại học, cho cả người thi lẫn người chấm, vai
trò của vận dụng, sáng tạo không có ý nghĩa gì cả. Kết quả là một
nghịch lý, ai học giỏi một, hai môn thì có cơ hội tiến bộ, còn lại thì như
toi cơm và muốn làm gì thì phải tự học lại từ đầu, học dốt là may mắn
vì còn có thể sửa chữa được. Nhiều nền giáo dục từng mắc sai lầm này,
và đã thay đổi quan niệm: một học sinh giỏi tức là giỏi một môn và các
môn khác đạt trung bình.
Bên cạnh kiến thức khoa học tự nhiên và xã hội, kiến thức nghệ thuật
qua hai môn nhạc họa từ lâu được đưa vào trường phổ thông, trước đây
là thứ yếu nay đã dần quy củ. Lực lượng giảng dạy trước chủ yếu từ
học sinh trung học của các trường văn hóa nghệ thuật tỉnh. Nếu thiếu,
đôi khi bổ sung bằng các giáo viên khác, cho đi học đôi chút chuyên tu
nhạc họa. Đương nhiên đội ngũ giáo viên trung học này rất yếu. Ba
năm học nghệ thuật, nhưng phải học rất nhiều môn khác, rồi giờ
chuyên tu nghệ thuật không nhiều. Ví dụ nếu học đàn ghita ở ngoài thì
ba năm đã thị tấu tốt, với thời gian ấy nếu học trong trường trung học
nghệ thuật thì mới gẩy được vài bài, chủ yếu là đệm. Môn vẽ cũng vậy,
học chuyên họa ba năm ở ngoài, thừa đủ thi thẳng đại học, nhưng học
trong trường, muốn vào đại học, lại mất một vài năm luyện thi. Song
vấn đề lại ở chỗ, tuyệt đại bộ phận các nền giáo dục đã bỏ dạy nhạc-
họa trong trường phổ thông (với tính cách dạy nghề), mà chuyển sang
dạy thẩm mỹ nghệ thuật, chủ yếu nâng tình yêu và kiến thức thưởng
ngoạn, còn lại sáng tạo là tự do, không phải ai cũng trở thành thiên tài,
và càng thiên tài càng cần tự do sáng tạo. Trẻ em bẩm sinh vốn vẽ đẹp,
và tâm hồn ngây thơ, giầu cảm xúc, ngôn ngữ hình ảnh phát triển trước
ngôn ngữ nói. Sự can thiệp của việc dạy vẽ lập tức làm xơ cứng thiên
bẩm này, chưa kể người dạy không phải là giỏi. Đến tuổi dậy thì, cái
thiên bẩm đó cũng tan biến, chỉ có rất ít người theo mãi nghệ thuật.
Vào trường Cao đẳng và Đại học nghệ thuật là mơ ước của những ai có
chút máu nghệ sỹ. Ở các trường đại học nghệ thuật, khi bỏ đi hệ trung
cấp, trình độ của học sinh đại học xuống hẳn. Sau nhiều năm luyện thi
và trượt, người ta đã rút ra những quy luật học tắt chỉ dành cho kỳ thi.
Ví dụ, bài vẽ bố cục theo đề tài, thì luyện một bố cục chung chung có
một đám người, nếu làm nông nghiệp thì cầm cuốc xẻng, nếu làm công
nghiệp thì cầm kìm búa, thêm chút máng nước, nếu là bộ đội, thì thay
đổi trang phục và cầm súng. Thực tế cho thấy phải dạy học (ở đại học)
cho những sinh viên này là một tai họa. Lối thi có tính cử tử và trình độ
văn hóa chung của sinh viên rất kém so với đòi hỏi của một nghệ sỹ.
Từ một trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương đến trường Đại học
Mỹ thuật Hà Nội, rồi các đại học Mỹ thuật Huế, thành phố Hồ Chí
Minh, đại học Mỹ thuật Công nghiệp,... phần chương trình nghệ thuật
từ năm 1925 đến nay dường như không có gì thay đổi ngoài những
phần chính trị, triết học, mỹ học, bất chấp nghệ thuật thế giới đã hoàn
toàn thay đổi và thay đổi liên tục trong thế kỷ qua. Học sinh vẫn học
theo lối cổ điển, coi việc luyện hình họa là nòng cốt của hội họa. Tuy
chương trình cơ bản không thay đổi, nhưng chất lượng giáo viên và
điều kiện học tập kém nhiều (nhất là trong thời bao cấp) làm cho việc
học cổ điển chỉ là tương đối. Ở đây, một lần nữa, nghịch lý xuất hiện,
do đào tạo kém, học kém mà nhiều người có cơ hội hơn đến với nghệ
thuật hiện tại. Kiến thức Cổ điển và cơ bản thì bao giờ cũng cần, nhưng
chỉ là một phương tiện, một trường phái, chứ không thể thành một áp
lực. Nhiều trường ngoài Việt Nam đã giải quyết việc này bằng việc tự
học trước khi vào trường và kết thúc việc học cơ bản từ năm thứ hai.
Ba năm sau là học sáng tạo với nghệ thuật. Giống như người ta gọi một
cầu thủ bóng đá vào đội bóng thì không dạy anh ta kỹ thuật đá bóng
nữa. Ấy vậy mà ở Việt Nam hiện nay, học thạc sỹ ngành mỹ thuật vẫn
có chương trình học hình họa, chúng tôi gọi đó là “phổ thông cấp 5”.
Từ sau chủ nghĩa Cổ điển và Hiện thực, các trào lưu nghệ thuật từ Ấn
tượng đến Trừu tượng, gọi chung là nghệ thuật hiện đại (Modern Art)
đều có học thuật riêng, nghệ thuật Hậu hiện đại (Post Modern Art) từ
Pop Art cho đến nghệ thuật Địa hình (Land Art) và nghệ thuật Thân thể
(Body Art) cũng vậy, mà học thuật của chúng xuất phát từ việc đối lập
về tư duy nghệ thuật với Cổ điển và Hiện thực. Sự xuất hiện của ba
nghệ thuật mới Sắp đặt (Installation), Trình diễn (Performance Art) và
Video Art đặt việc đào tạo nghệ thuật cho các nhà trường phổ thông
những vấn đề nan giải. Một mặt, chương trình của các trường nghệ
thuật đã quá già cỗi, cứng nhắc, dường như là không thể và không
muốn thay đổi; mặt khác việc rượt đuổi các trào lưu trên của các nghệ
sỹ bên ngoài, đặc biệt từ năm 1980, và sau Đổi mới đã ảnh hưởng
không nhỏ đến sinh viên hiện tại. Đã có lớp sinh viên tự làm một trưng
bày Sắp đặt ngay trong lớp học và hiệu quả cũng không đến nỗi nào.
Phòng triển lãm của trường, cũng thường được các nghệ sỹ Tiền phong
trong ngoài thuê mượn, hấp dẫn không ít thầy và trò tham gia vào các
hoạt động nghệ thuật mới mẻ hơn, và về căn bản thì là thấy tốt, thấy
mới, chứ không làm sao cả. Thế nhưng khi Sắp đặt, Trình diễn và
Video Art đã trở thành những môn học chính thức của các trường nghệ
thuật nước ngoài, và chiếm từ 60-68% các triển lãm nghệ thuật quốc tế,
thì các trường nghệ thuật trong nước vẫn dè dặt, chưa ai dám đặt vấn đề
như đó sẽ là một chương trình tương lai.
Không rõ việc theo đuổi liên tục các trường phái nghệ thuật từ bên
ngoài là hay không hay đối với nghệ thuật Việt Nam, nhưng nó đã là
một thực tế, khi chúng ta sáng tạo thì ít, bắt chước thì nhiều, mỹ miều
hơn là sáng tạo trong một quá trình học tập. Điều này đặt ...