G. W. G. Hegel : HIỆN TƯỢNG HỌC TINH THẦN[Phần 7]: (A A) LÝ TÍNH_3
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 133.02 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bây giờ, bởi lẽ tính bản chất (Wesenheit) thuần túy của sự vật cũng như sự dị biệt của chúng đều thuộc về Lý tính, nên, nói một cách chặt chẽ
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
G. W. G. Hegel : HIỆN TƯỢNG HỌC TINH THẦN[Phần 7]: (A A) LÝ TÍNH_3G. W. G. Hegel : HIỆN TƯỢNG HỌC TINH THẦN [Phần 7]: (A A) LÝ TÍNH SỰ XÁC TÍN VÀ SỰ THẬT CỦA LÝ TÍNH § 236Bây giờ, bởi lẽ tính bản chất (Wesenheit) thuần túy của sự vật cũng nhưsự dị biệt của chúng đều thuộc về Lý tính, nên, nói một cách chặt chẽ,dường như ta không còn có thể nói gì về sự vật được nữa cả, tức nói vềcái gì đơn thuần hiện diện cho ý thức như là cái phủ định của chính nó.Vì nếu bảo rằng nhiều phạm trù là các giống (Arten) của phạm trùthuần túy thì có nghĩa là: phạm trù thuần túy vẫn là Loài (Gattung) củachúng hay là cái bản chất của chúng và không phải đối lập với chúng.Thế nhưng, chúng vốn là cái “nước đôi” (das Zweideutige), [vì] đồngthời có cái tồn tại-khác – đối lập lại phạm trù thuần túy – trong tính đathể [nhiều] của nó một cách tự-mình. Trong thực tế, chúng mâu thuẫnvới phạm trù thuần túy do tính đa thể này; và sự thống nhất thuần túyphải thủ tiêu [vượt bỏ] (aufheben) tính đa thể này một cách tự-mình,qua đó tự kiến tạo mình như là sự thống nhất phủ định (negativeEinheit) của những cái dị biệt [những phạm trù khác nhau]. Tuy nhiên,với tư cách là sự thống nhất [hay nhất thể] phủ định, phạm trù thuầntúy không những loại trừ ra khỏi chính nó những cái dị biệt, xét nhưnhững cái dị biệt, mà cả sự thống nhất thuần túy và trực tiếp đầu tiênnày; và nó là tính cá biệt: một phạm trù mới với tư cách là ý thức loạitrừ, tức là ý thức có một “cái khác” tồn tạicho nó(416). Tính cá biệt làbước quá độ [chuyển hóa] của phạm trù từ Khái niệm của nó chuyểnsang một tính thực tại (Realität) bên ngoài, là niệm thức [sơ đồ] thuầntúy (das reine Schema) vừa đồng thời là ý thức, vừa ngụ ý (hindeuten)đến sự hiện diện của một “cái khác”, bởi nó là tính cá biệt và là cái Mộtloại trừ. Nhưng, “cái khác” này của phạm trù chỉ đơn thuần là các phạmtrù khác đầu tiên, đó là tính bản chất thuần túy và sự dị biệt thuần túy[của phạm trù này]; và trong phạm trù này, tức là ngay trong việc thiếtđịnh “cái khác” hay là ngay trong bản thân “cái khác” này, ý thức vẫncũng là chính bản thân nó. Mỗi một trong những mô-men (Momente)khác nhau này chỉ ra [hoặc ngụ ý] một yếu tố khác, nhưng đồng thờitrong chúng, ta không đi đến một cái tồn-tại-khác [tuyệt đối] nào cả.Phạm trù thuần túy chỉ ra các giống (Arten) [các phạm trù khác nhau],[nhưng] các giống này lại chuyển hóa thành phạm trù phủ định, [phạmtrù thuần túy có tính loại trừ], hay thành tính cá biệt; tuy nhiên, tính cábiệt này, đến lượt nó, lại chỉ ngược lại vào các [phạm trù] giống; bảnthân nó là ý thức thuần túy luôn nhận ra trong mỗi giống sự thống nhấtrõ ràng này với chính bản thân nó; nhưng là một sự thống nhất cũngđồng thời được quy chiếu với một cái khác; cái khác này đã tiêu biến đikhi tồn tại và khi tiêu biến đi, cái khác ấy lại được tạo ra trở lại. § 237Ở đây, ta thấy ý thức thuần túy được thiết định một cách nhị bội. |Một mặt, nó là sự vận động không ngừng nghỉ, tới lui xuyên qua tất cảmọi yếu tố của nó, nhìn thấy trong những yếu tố ấy cái tồn tại-khácchập chờn trước mắt nó và tự thủ tiêu trong tiến trình nắm bắt; mặtkhác, nó đúng ra là sự thống nhất [hay nhất thể] “yên tĩnh”, xác tín vềsự thật của riêng mình. Sự vận động ấy là “cái khác” cho nhất thể này,trong khi nhất thể “yên tĩnh” này là “cái khác” cho sự vận động kia; ýthức và đối tượng lần lượt thay phiên nhau ở bên trong các tính quyđịnh [đối lập] qua lại này. Như thế, ý thức khi thì thấy chính mình đangtới lui tìm kiếm và đối tượng của nó là cái tự-mình thuần túy và là cáibản chất thuần túy; khi thì nhận chân rằng bản thân mình là Phạm trùđơn giản [lý tính], còn đối tượng là sự vận động của các yếu tố dị biệtnhau. Tuy nhiên, với tư cách là cái bản chất, ý thức là bản thân toàn bộtiến trình này: xuất phát từ chính mình như là Phạm trù đơn giản,chuyển hóa thành tính cá biệt và thành đối tượng để trực nhận(anschauen) tiến trình này ở nơi đối tượng, thủ tiêu đối tượng như làmột cái gì được phân biệt [với chính nó], chiếm lĩnh (zueignen) đốitượng như là đối tượng của chính mình và tuyên bố bản thân mình làsự xác tín rằng: mình là tất cả thực tại, [nghĩa là] không những là chínhmình mà còn là đối tượng của mình(417). § 238Tuyên bố đầu tiên của nó chỉ đơn thuần là lời tuyên bố trừu tượng,trống rỗng như vậy, đó là: tất cả đều là “của mình”. Sở dĩ như vậy vì sựxác tín rằng mình là tất cả thực tại chỉ mới thoạt đầu là phạm trù thuầntúy. Lý tính nhận thức chính mình trong đối tượng theo nghĩa đầu tiênnày chính là nội dung biểu hiện của [loại] thuyết duy tâm trống rỗng,[trừu tượng]; thuyết duy tâm này chỉ lãnh hội Lý tính như là Lý tính mớixuất hiện lúc ban đầu, tức ở chỗ: thuyết ấy [hoang] tưởng rằng khi vạchra được cái “của tôi thuần túy” này của ý thức trong mọi sự tồn ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
G. W. G. Hegel : HIỆN TƯỢNG HỌC TINH THẦN[Phần 7]: (A A) LÝ TÍNH_3G. W. G. Hegel : HIỆN TƯỢNG HỌC TINH THẦN [Phần 7]: (A A) LÝ TÍNH SỰ XÁC TÍN VÀ SỰ THẬT CỦA LÝ TÍNH § 236Bây giờ, bởi lẽ tính bản chất (Wesenheit) thuần túy của sự vật cũng nhưsự dị biệt của chúng đều thuộc về Lý tính, nên, nói một cách chặt chẽ,dường như ta không còn có thể nói gì về sự vật được nữa cả, tức nói vềcái gì đơn thuần hiện diện cho ý thức như là cái phủ định của chính nó.Vì nếu bảo rằng nhiều phạm trù là các giống (Arten) của phạm trùthuần túy thì có nghĩa là: phạm trù thuần túy vẫn là Loài (Gattung) củachúng hay là cái bản chất của chúng và không phải đối lập với chúng.Thế nhưng, chúng vốn là cái “nước đôi” (das Zweideutige), [vì] đồngthời có cái tồn tại-khác – đối lập lại phạm trù thuần túy – trong tính đathể [nhiều] của nó một cách tự-mình. Trong thực tế, chúng mâu thuẫnvới phạm trù thuần túy do tính đa thể này; và sự thống nhất thuần túyphải thủ tiêu [vượt bỏ] (aufheben) tính đa thể này một cách tự-mình,qua đó tự kiến tạo mình như là sự thống nhất phủ định (negativeEinheit) của những cái dị biệt [những phạm trù khác nhau]. Tuy nhiên,với tư cách là sự thống nhất [hay nhất thể] phủ định, phạm trù thuầntúy không những loại trừ ra khỏi chính nó những cái dị biệt, xét nhưnhững cái dị biệt, mà cả sự thống nhất thuần túy và trực tiếp đầu tiênnày; và nó là tính cá biệt: một phạm trù mới với tư cách là ý thức loạitrừ, tức là ý thức có một “cái khác” tồn tạicho nó(416). Tính cá biệt làbước quá độ [chuyển hóa] của phạm trù từ Khái niệm của nó chuyểnsang một tính thực tại (Realität) bên ngoài, là niệm thức [sơ đồ] thuầntúy (das reine Schema) vừa đồng thời là ý thức, vừa ngụ ý (hindeuten)đến sự hiện diện của một “cái khác”, bởi nó là tính cá biệt và là cái Mộtloại trừ. Nhưng, “cái khác” này của phạm trù chỉ đơn thuần là các phạmtrù khác đầu tiên, đó là tính bản chất thuần túy và sự dị biệt thuần túy[của phạm trù này]; và trong phạm trù này, tức là ngay trong việc thiếtđịnh “cái khác” hay là ngay trong bản thân “cái khác” này, ý thức vẫncũng là chính bản thân nó. Mỗi một trong những mô-men (Momente)khác nhau này chỉ ra [hoặc ngụ ý] một yếu tố khác, nhưng đồng thờitrong chúng, ta không đi đến một cái tồn-tại-khác [tuyệt đối] nào cả.Phạm trù thuần túy chỉ ra các giống (Arten) [các phạm trù khác nhau],[nhưng] các giống này lại chuyển hóa thành phạm trù phủ định, [phạmtrù thuần túy có tính loại trừ], hay thành tính cá biệt; tuy nhiên, tính cábiệt này, đến lượt nó, lại chỉ ngược lại vào các [phạm trù] giống; bảnthân nó là ý thức thuần túy luôn nhận ra trong mỗi giống sự thống nhấtrõ ràng này với chính bản thân nó; nhưng là một sự thống nhất cũngđồng thời được quy chiếu với một cái khác; cái khác này đã tiêu biến đikhi tồn tại và khi tiêu biến đi, cái khác ấy lại được tạo ra trở lại. § 237Ở đây, ta thấy ý thức thuần túy được thiết định một cách nhị bội. |Một mặt, nó là sự vận động không ngừng nghỉ, tới lui xuyên qua tất cảmọi yếu tố của nó, nhìn thấy trong những yếu tố ấy cái tồn tại-khácchập chờn trước mắt nó và tự thủ tiêu trong tiến trình nắm bắt; mặtkhác, nó đúng ra là sự thống nhất [hay nhất thể] “yên tĩnh”, xác tín vềsự thật của riêng mình. Sự vận động ấy là “cái khác” cho nhất thể này,trong khi nhất thể “yên tĩnh” này là “cái khác” cho sự vận động kia; ýthức và đối tượng lần lượt thay phiên nhau ở bên trong các tính quyđịnh [đối lập] qua lại này. Như thế, ý thức khi thì thấy chính mình đangtới lui tìm kiếm và đối tượng của nó là cái tự-mình thuần túy và là cáibản chất thuần túy; khi thì nhận chân rằng bản thân mình là Phạm trùđơn giản [lý tính], còn đối tượng là sự vận động của các yếu tố dị biệtnhau. Tuy nhiên, với tư cách là cái bản chất, ý thức là bản thân toàn bộtiến trình này: xuất phát từ chính mình như là Phạm trù đơn giản,chuyển hóa thành tính cá biệt và thành đối tượng để trực nhận(anschauen) tiến trình này ở nơi đối tượng, thủ tiêu đối tượng như làmột cái gì được phân biệt [với chính nó], chiếm lĩnh (zueignen) đốitượng như là đối tượng của chính mình và tuyên bố bản thân mình làsự xác tín rằng: mình là tất cả thực tại, [nghĩa là] không những là chínhmình mà còn là đối tượng của mình(417). § 238Tuyên bố đầu tiên của nó chỉ đơn thuần là lời tuyên bố trừu tượng,trống rỗng như vậy, đó là: tất cả đều là “của mình”. Sở dĩ như vậy vì sựxác tín rằng mình là tất cả thực tại chỉ mới thoạt đầu là phạm trù thuầntúy. Lý tính nhận thức chính mình trong đối tượng theo nghĩa đầu tiênnày chính là nội dung biểu hiện của [loại] thuyết duy tâm trống rỗng,[trừu tượng]; thuyết duy tâm này chỉ lãnh hội Lý tính như là Lý tính mớixuất hiện lúc ban đầu, tức ở chỗ: thuyết ấy [hoang] tưởng rằng khi vạchra được cái “của tôi thuần túy” này của ý thức trong mọi sự tồn ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
tiểu luận triết học trường phái triết học vấn đề cơ bản triết học chủ nghĩa hegel Chủ nghĩa duy tâm triết học HegelGợi ý tài liệu liên quan:
-
27 trang 349 2 0
-
21 trang 282 0 0
-
Bài tiểu luận: Phật giáo và sự ảnh hưởng ảnh hưởng của nó đến đời sống tinh thần của người Việt Nam
18 trang 275 1 0 -
30 trang 245 0 0
-
Tiểu luận Triết học: Học thuyết Âm Dương và Văn hóa Trọng Âm của người Việt
26 trang 239 0 0 -
20 trang 237 0 0
-
Tiểu luận kinh tế chính trị: Quy luật giá trị cơ chế thị trường và nền kinh tế thị trường
16 trang 202 0 0 -
Học thuyết giá trị thặng dư là hòn đá tảng to lớn nhất trong học thuyết kinh tế của C. Mác
7 trang 191 0 0 -
19 trang 174 0 0
-
Lý giải của Trần Đức Thảo về nguồn gốc của ý thức
4 trang 171 0 0 -
23 trang 167 0 0
-
29 trang 159 0 0
-
Tiểu luận: Lý luận về nhà nước và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
21 trang 157 0 0 -
23 trang 156 0 0
-
31 trang 153 0 0
-
38 trang 137 0 0
-
14 trang 134 0 0
-
Tiểu luận đề tài : Triết học phật giáo
25 trang 134 0 0 -
12 trang 129 0 0
-
19 trang 129 0 0