G. W. G. Hegel : HIỆN TƯỢNG HỌC TINH THẦN[Phần 7]: (A A) LÝ TÍNH_5
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 133.04 KB
Lượt xem: 13
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
(411)Sự tất yếu và cần thiết phải có một lịch sử của Tinh thần để hiểu bản thân Tinh thần. Những gì Tinh thần là “tự-mình” (hay “cho-ta”) chỉ có thể biện minh bằng tiến trình nó trở thành “cho mình”.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
G. W. G. Hegel : HIỆN TƯỢNG HỌC TINH THẦN[Phần 7]: (A A) LÝ TÍNH_5G. W. G. Hegel : HIỆN TƯỢNG HỌC TINH THẦN [Phần 7]: (A A) LÝ TÍNH SỰ XÁC TÍN VÀ SỰ THẬT CỦA LÝ TÍNH(411)Sự tất yếu và cần thiết phải có một lịch sử của Tinh thần để hiểubản thân Tinh thần. Những gì Tinh thần là “tự-mình” (hay “cho-ta”) chỉcó thể biện minh bằng tiến trình nó trở thành “cho mình”.(412)Vậy ở đây, Phạm trù là sự thống nhất của Tư duy và Tồn tại,nhưng là một sự thống nhất chưa được phát triển một cách cụ thể.(413)Phạm trù “là tính bản chất [...] của cái hiện hữu nói chung” ám chỉhọc thuyết về phạm trù của Aristote. Khi nói về phạm trù như là “tínhbản chất của cái đang hiện hữu” (Wesenheit des Seienden), Hegelmuốn nói đến Khái niệm “ousia” (Hy lạp: “bản thể”, “tính bản chất”)của Aristote. (Xem: Aristote: Categoriae (“Các phạm trù”), Q.1, 7E; Siêuhình học. Z.1), và “của cái hiện hữu đối lập lại với ý thức” là ám chỉquan niệm về phạm trù của Kant như là sự quy định về cái hiện hữuđược ý thức hình dung như là “đối tượng” của kinh nghiệm.(414)Ám chỉ cái “Tự mình” (das Ansich) theo nghĩa là “Vật-tự thân”(Ding-an sich) của Kant. Ở đây là phần phê phán của Hegel đối với Kantvà Fichte, tiếp nối phần phê phán đã trình bày trong quyển “Glaubenund Wissen”/“Tin và Biết” ở thời kỳ Jena (bản Lasson: phê phán Kant,tr. 235; phê phán Fichte, tr. 313).(415)Ám chỉ và phê phán rất nặng lời đối với cách làm của Kant: đề ra“Bảng các phạm trù” bằng đường vòng, thông qua “manh mối”(Leitfaden) của “Bảng các chức năng phán đoán”. (Xem: Kant: Phê phánlý tính thuần túy, B 105 và tiếp). Trước hết, Kant khẳng định tính đồngnhất của Tự-ý thức (ông gọi là “sự thống nhất tổng hợp nguyên thủycủa Thông giác siêu nghiệm”, rồi sau đó là danh mục các phạm trù mà[cố tình] không biện minh. Hegel xem đây là “sự cam kết” hay “khẳngquyết” chủ quan, không nói lên được sự thống nhất giữa tư duy và tồntại. Trái lại, Fichte đã nhận ra sự cần thiết của một sự “diễn dịch” thựcsự, nhưng cũng không làm triệt để và rơi vào “tính vô tận tồi”.(416)Phạm trù thuần túy hay nhất thể trực tiếp trở thành cái nhất thểphủ định, thành tính cá biệt mà vận động của nó là phủ định và khôngngừng vượt bỏ mọi tính quy định. Đây là cách lý giải của Hegel về phépbiện chứng của Fichte, giống như Hegel đã viết trong Lô-gíc học và Siêuhình học ở thời kỳ Jena: “Tính cá biệt, như là tính cá biệt tuyệt đối, đơngiản, là cái Tôi; và tính quy định được thiết định cho cái Tôi không phảinhư một tính quy định ngoại tại, tự-mình mà như một tính quy địnhphải (soll) tự thủ tiêu” (bản Lasson, B XVIII, tr. 178).(417)Phép biện chứng: “Tôi/không-Tôi” của Fichte là sự luân phiên thayđổi của các quy định này. Cái khác bị thủ tiêu khi vừa xuất hiện, nhưngnó lúc nào cũng xuất hiện trở lại và do đó, cái “không-Tôi” không thểnào bị tiêu trừ được (“tính vô tận tồi”). Như sẽ thấy trong tiết sau(Quan sát giới Tự nhiên), việc tìm kiếm vô tận trong cái biết và khámphá về Tự nhiên đối lập lại với cái nhất thể “yên tĩnh” tự xác tín về Sựthật của mình. Sự thật (Chân lý) này vẫn còn là một cái “Bên kia” đối vớithuyết duy tâm hình thức này.(418)Ám chỉ thuyết duy tâm chủ quan của Berkeley (1685-1753) và củaFichte (1762-1814).(419)Ám chỉ lý luận về “cú hích” (Anstoss) [Pháp: “un chocétranger/Anh: “an extraneous impulse) trong “Học thuyết khoa học”của Fichte (Fichte: “Cơ sở Học thuyết khoa học”, Grundlage derWissenschaftslehre, trang 195 và tiếp). Theo Fichte, tính quy định của“cái Tôi tuyệt đối” là sự “nỗ lực” (Streben) vô tận. Nỗ lực này đòi hỏirằng tất cả thực tại phải được “cái Tôi” thiết định một cách tuyệt đối.Nhưng vì không có nỗ lực nào mà không có đối tượng, nên “cái Tôi” cầnđến sự đề kháng của “cái không-Tôi” để “cái Tôi” có thể trở nên “thựchành (praktisch) trong việc vượt qua “cái không-Tôi”. Đồng thời, cái Tôi-hữu tận phải phản tư xem nó có thực sự nắm bắt toàn thể thực tại bêntrong nó không. “Cú hích” của đối tượng là điều kiện để cho “nỗ lực”nói trên được phản tư và để cho cái Tôi nhận biết về chính mình và cóthể tự quy định chính mình như vậy. Hegel tóm tắt sự phê phán củamình đối với quan niệm của Kant và Fichte về lý tính: Một mặt, khẳngđịnh rằng lý tính là sự xác tín rằng mình là tất cả thực tại; mặt khác, lýtính không đạt được một thực tại nhất định nào mà không có “cú híchngoại tại” (Fichte) hay “tác động của cảm năng” (Kant). Hegel gọi đó là“tính nước đôi tự mâu thuẫn”, tức một thuyết “nhị nguyên” chứ khôngphải là tính vô tận đích thực của sự phản tư vào trong chính mình.(420)Thuyết duy tâm chủ quan của Fichte diễn đạt một cách khẳngđịnh cùng một Sự thật (hay chân lý) mà thuyết hoài nghi đã diễn đạtmột cách phủ định. Do đó, Hegel xem thuyết duy tâm chủ quan ở thờiđại ông là một hình thức của “Ý thức bất hạnh”, chỉ có điều, Ý thức bấthạnh này không biết về sự bất hạnh của mình. (theo J.H).(421)“Sự thống n ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
G. W. G. Hegel : HIỆN TƯỢNG HỌC TINH THẦN[Phần 7]: (A A) LÝ TÍNH_5G. W. G. Hegel : HIỆN TƯỢNG HỌC TINH THẦN [Phần 7]: (A A) LÝ TÍNH SỰ XÁC TÍN VÀ SỰ THẬT CỦA LÝ TÍNH(411)Sự tất yếu và cần thiết phải có một lịch sử của Tinh thần để hiểubản thân Tinh thần. Những gì Tinh thần là “tự-mình” (hay “cho-ta”) chỉcó thể biện minh bằng tiến trình nó trở thành “cho mình”.(412)Vậy ở đây, Phạm trù là sự thống nhất của Tư duy và Tồn tại,nhưng là một sự thống nhất chưa được phát triển một cách cụ thể.(413)Phạm trù “là tính bản chất [...] của cái hiện hữu nói chung” ám chỉhọc thuyết về phạm trù của Aristote. Khi nói về phạm trù như là “tínhbản chất của cái đang hiện hữu” (Wesenheit des Seienden), Hegelmuốn nói đến Khái niệm “ousia” (Hy lạp: “bản thể”, “tính bản chất”)của Aristote. (Xem: Aristote: Categoriae (“Các phạm trù”), Q.1, 7E; Siêuhình học. Z.1), và “của cái hiện hữu đối lập lại với ý thức” là ám chỉquan niệm về phạm trù của Kant như là sự quy định về cái hiện hữuđược ý thức hình dung như là “đối tượng” của kinh nghiệm.(414)Ám chỉ cái “Tự mình” (das Ansich) theo nghĩa là “Vật-tự thân”(Ding-an sich) của Kant. Ở đây là phần phê phán của Hegel đối với Kantvà Fichte, tiếp nối phần phê phán đã trình bày trong quyển “Glaubenund Wissen”/“Tin và Biết” ở thời kỳ Jena (bản Lasson: phê phán Kant,tr. 235; phê phán Fichte, tr. 313).(415)Ám chỉ và phê phán rất nặng lời đối với cách làm của Kant: đề ra“Bảng các phạm trù” bằng đường vòng, thông qua “manh mối”(Leitfaden) của “Bảng các chức năng phán đoán”. (Xem: Kant: Phê phánlý tính thuần túy, B 105 và tiếp). Trước hết, Kant khẳng định tính đồngnhất của Tự-ý thức (ông gọi là “sự thống nhất tổng hợp nguyên thủycủa Thông giác siêu nghiệm”, rồi sau đó là danh mục các phạm trù mà[cố tình] không biện minh. Hegel xem đây là “sự cam kết” hay “khẳngquyết” chủ quan, không nói lên được sự thống nhất giữa tư duy và tồntại. Trái lại, Fichte đã nhận ra sự cần thiết của một sự “diễn dịch” thựcsự, nhưng cũng không làm triệt để và rơi vào “tính vô tận tồi”.(416)Phạm trù thuần túy hay nhất thể trực tiếp trở thành cái nhất thểphủ định, thành tính cá biệt mà vận động của nó là phủ định và khôngngừng vượt bỏ mọi tính quy định. Đây là cách lý giải của Hegel về phépbiện chứng của Fichte, giống như Hegel đã viết trong Lô-gíc học và Siêuhình học ở thời kỳ Jena: “Tính cá biệt, như là tính cá biệt tuyệt đối, đơngiản, là cái Tôi; và tính quy định được thiết định cho cái Tôi không phảinhư một tính quy định ngoại tại, tự-mình mà như một tính quy địnhphải (soll) tự thủ tiêu” (bản Lasson, B XVIII, tr. 178).(417)Phép biện chứng: “Tôi/không-Tôi” của Fichte là sự luân phiên thayđổi của các quy định này. Cái khác bị thủ tiêu khi vừa xuất hiện, nhưngnó lúc nào cũng xuất hiện trở lại và do đó, cái “không-Tôi” không thểnào bị tiêu trừ được (“tính vô tận tồi”). Như sẽ thấy trong tiết sau(Quan sát giới Tự nhiên), việc tìm kiếm vô tận trong cái biết và khámphá về Tự nhiên đối lập lại với cái nhất thể “yên tĩnh” tự xác tín về Sựthật của mình. Sự thật (Chân lý) này vẫn còn là một cái “Bên kia” đối vớithuyết duy tâm hình thức này.(418)Ám chỉ thuyết duy tâm chủ quan của Berkeley (1685-1753) và củaFichte (1762-1814).(419)Ám chỉ lý luận về “cú hích” (Anstoss) [Pháp: “un chocétranger/Anh: “an extraneous impulse) trong “Học thuyết khoa học”của Fichte (Fichte: “Cơ sở Học thuyết khoa học”, Grundlage derWissenschaftslehre, trang 195 và tiếp). Theo Fichte, tính quy định của“cái Tôi tuyệt đối” là sự “nỗ lực” (Streben) vô tận. Nỗ lực này đòi hỏirằng tất cả thực tại phải được “cái Tôi” thiết định một cách tuyệt đối.Nhưng vì không có nỗ lực nào mà không có đối tượng, nên “cái Tôi” cầnđến sự đề kháng của “cái không-Tôi” để “cái Tôi” có thể trở nên “thựchành (praktisch) trong việc vượt qua “cái không-Tôi”. Đồng thời, cái Tôi-hữu tận phải phản tư xem nó có thực sự nắm bắt toàn thể thực tại bêntrong nó không. “Cú hích” của đối tượng là điều kiện để cho “nỗ lực”nói trên được phản tư và để cho cái Tôi nhận biết về chính mình và cóthể tự quy định chính mình như vậy. Hegel tóm tắt sự phê phán củamình đối với quan niệm của Kant và Fichte về lý tính: Một mặt, khẳngđịnh rằng lý tính là sự xác tín rằng mình là tất cả thực tại; mặt khác, lýtính không đạt được một thực tại nhất định nào mà không có “cú híchngoại tại” (Fichte) hay “tác động của cảm năng” (Kant). Hegel gọi đó là“tính nước đôi tự mâu thuẫn”, tức một thuyết “nhị nguyên” chứ khôngphải là tính vô tận đích thực của sự phản tư vào trong chính mình.(420)Thuyết duy tâm chủ quan của Fichte diễn đạt một cách khẳngđịnh cùng một Sự thật (hay chân lý) mà thuyết hoài nghi đã diễn đạtmột cách phủ định. Do đó, Hegel xem thuyết duy tâm chủ quan ở thờiđại ông là một hình thức của “Ý thức bất hạnh”, chỉ có điều, Ý thức bấthạnh này không biết về sự bất hạnh của mình. (theo J.H).(421)“Sự thống n ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
tiểu luận triết học trường phái triết học vấn đề cơ bản triết học chủ nghĩa hegel Chủ nghĩa duy tâm triết học HegelGợi ý tài liệu liên quan:
-
27 trang 349 2 0
-
21 trang 282 0 0
-
Bài tiểu luận: Phật giáo và sự ảnh hưởng ảnh hưởng của nó đến đời sống tinh thần của người Việt Nam
18 trang 275 1 0 -
30 trang 245 0 0
-
Tiểu luận Triết học: Học thuyết Âm Dương và Văn hóa Trọng Âm của người Việt
26 trang 239 0 0 -
20 trang 237 0 0
-
Tiểu luận kinh tế chính trị: Quy luật giá trị cơ chế thị trường và nền kinh tế thị trường
16 trang 202 0 0 -
Học thuyết giá trị thặng dư là hòn đá tảng to lớn nhất trong học thuyết kinh tế của C. Mác
7 trang 191 0 0 -
19 trang 174 0 0
-
Lý giải của Trần Đức Thảo về nguồn gốc của ý thức
4 trang 171 0 0 -
23 trang 167 0 0
-
29 trang 159 0 0
-
Tiểu luận: Lý luận về nhà nước và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
21 trang 157 0 0 -
23 trang 156 0 0
-
31 trang 153 0 0
-
38 trang 137 0 0
-
14 trang 134 0 0
-
Tiểu luận đề tài : Triết học phật giáo
25 trang 134 0 0 -
12 trang 129 0 0
-
19 trang 129 0 0