Gan nhiễm mỡ (GNM), sự tích tụ chất béo trong tế bào gan, là một chẩn đoán mô học qua mẫu mô gan sinh thiết. Có rất nhiều nguyên nhân gây ra gan nhiễm mỡ. Nguyên nhân quan trọng nhất rất khác nhau trong từng nơi và trong các nhóm dân tộc khác nhau trên thế giới. Bệnh cảnh lâm sàng của GNM tùy thuộc vào mức độ tích tụ chất béo trong tế bào gan và các nguyên nhân bệnh lý. Những hiểu biết tốt hơn về chuyển hóa của chất béo và hệ thống các men gan...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
GAN NHIỄM MỠ: GIẢI PHẪU BỆNH, NGUYÊN NHÂN, CƠ CHẾ BỆNH SINH VÀ CHẨN ÐOÁN GAN NHIỄM MỠ: GIẢI PHẪU BỆNH, NGUYÊN NHÂN, CƠ CHẾ BỆNH SINH VÀ CHẨN ÐOÁNTÓM TẮTGan nhiễm mỡ (GNM), sự tích tụ chất béo trong tế bào gan, là một chẩnđoán mô học qua mẫu mô gan sinh thiết. Có rất nhiều nguyên nhân gây ragan nhiễm mỡ. Nguyên nhân quan trọng nhất rất khác nhau trong từng nơivà trong các nhóm dân tộc khác nhau trên thế giới. Bệnh cảnh lâm sàng củaGNM tùy thuộc vào mức độ tích tụ chất béo trong tế bào gan và các nguyênnhân bệnh lý. Những hiểu biết tốt hơn về chuyển hóa của chất béo và hệthống các men gan qua các thử nghiệm trên thú và mẫu mô gan sinh thiếttrên người đã góp phần to lớn trong việc giải thích cơ chế bệnh sinh củaGNM. GNM đơn thuần thường không đòi hỏi điều trị chuyên biệt và tiếntriển tốt nếu bệnh lý cơ bản được điều trị thích hợp. Trong bài viết này,chúng tôi chỉ trình bày một số vấn đề về giải phẫu bệnh, các nguyên nhân,cơ chế bệnh sinh và chẩn đoán của GNM đơn thuần do sự tích tụTriglycerides là chủ yếu.SUMMARYFATTY LIVER: PATHOLOGY, CAUSES, PATHOGENESIS ANDDIAGNOSISLe Thanh Ly, Nguyen Sao Trung, Trinh Kim Anh* Y hoc TP. Ho Chi Minh1999 * Vol. 3 * No. 1: 1-6Fatty liver or steatosis, the accumulation of lipid within hepatocytes, is acommon histological finding in liver biopsies. The causes of fatty liver arenumerous, and in different areas of the world and among differentpopulations, the most important causes differ. The clinical feat100ures of fatty liver depend not only on the extent and type of lipid depositionbut also on its aetiology. The development of animal models, and micromethods for lipid and enzymatic analysis on human liver biopsy samples hasgreatly enhanced the potential for understanding the pathogenesis of fattyliver. In general, simple fatty liver is a benign condition requiring no specifictreatment, resolving of the underlying causes are treated. In this paper, thefollowing discussion will deal principally with pathology, causes,pathogenesis and diagnosis of fatty liverwhich are associated withpredominantly triglycerides deposition.MỞ ÐẦUChất béo, thành phần thiết yếu của tế bào gan cũng như các tế bào sốngkhác, chiếm khoảng 20% trọng lượng gan, hầu hết là phospholipid của màngtế bào. Triglycerides (mỡ trung tính) chỉ chiếm dưới 5% trọng lượng gan. Ởngười bình thường không thấy hoặc rất ít Triglycerides trong tế bào gan khiquan sát dưới kính hiển vi quang học.Gan nhiễm mỡ xảy ra khi lượng chất béo, chủ yếu là Triglycerides, tích tụtrong tế bào gan vượt quá 5% trọng lượng gan. Có rất nhiều nguyên nhângây ra sự tích tụ này(2,10). Biểu hiện lâm sàng của GNM tùy thuộc vào mứcđộ tích tụ chất béo và nguyên nhân gây bệnh. Trong đa số các trường hợp,loại chất béo tích tụ trong tế bào gan là Triglycerides. Sự tích tụ các dạngchất béo khác ít xảy ra hơn.Trong các bệnh rối loạn chuyển hoá di truyền (bệnh Wolman, bệnh ứ đọngCholesterol ester) thì tích tụ Cholesterol ester là chủ yếu. Trong các bệnh lýkhác thì có sựkết hợp gia tăng của Sphingolipids và Phospholipide (bệnh Faber); tăngSphingomyelin (bệnh Niemann Pick), Gangliosides (bệnh Tay-Sach) hoặcGlucocerebrosides (bệnh Gaucher)(1).Nguyên nhân của GNM khác nhau tùy theo vùng địa dư và nhóm dân. Bệnhbéo phì, bệnh gan do rượu là nguyên nhân chủ yếu gây ra GNM tại nướcMỹ(2). Gần đây, tại Việt Nam, GNM được phát hiện ngày càng nhiều quasiêu âm chẩn đoán khi kỹ thuật này được áp dụng rộng rãi từ cuối nhữngnăm 1980.Trong bài viết này, chúng tôi trình bày một số vấn đề về giải phẫu bệnh, cácnguyên nhân, cơ chế bệnh sinh và chẩn đoán của GNM đơn thuần do sự tíchtụ Triglycerides.GIẢI PHẪU BỆNH CỦA GAN NHIỄM MỠÐại thể của GNMRokitansky là người đầu tiên phát hiện GNM vào năm 1884 khi ông phẫutích một lá gan to, màu vàng bằng con dao được sưởi ấm. Ông nhận thấynhững giọt mỡ dính trên dao(2). Sự tích tụ chất béo thường lan toả trong toànbộ gan, đôi khi khu trú. Khi chất béo tích tụ nhiều có thể làm gan to, nặnghơn bình thường, bề mặt có màu xanh vàng nhạt, diện cắt có nhiều mỡ óngánh trào ra(1,2).Hình 1: Hình ảnh giản lược 2 dạng gan nhiễm mỡVi thể của GNMTrong quá trình xử lý mô gan bằng kỹ thuật cắt vùi nến (paraffin) và nhuộmvới phẩm Hematoxylin-Eosin, chất béo trong tế bào gan thoát ra ngoài và tạonên các không bào mỡ dưới dạng những túi rỗng (vacuoles) trong tế bào gandễ nhận thấy được dưới kính hiển vi quang học. Chất béo trong tế bào gancũng có thể được xác định nhanh bằng kỹ thuật sinh thiết tức thì (cắt lạnh)và nhuộm với Sudan hoặc dầu đỏ O. Có 2 loại hình thái giải phẫu bệnh vithể: GNM dạng hạt to và GNM dạng hạt nhỏ(2, 10).GNM dạng hạt to (hình 1)Thường gặp. Tế bào gan chứa những túi lớn có kích thước > 25 m gồmmột hoặc nhiều túi và đẩy lệch nhân về một phía. Thường sự tích tụ chất béobắt đầu ở vùng quanh tĩnh mạ ...