Danh mục

GÂY MÊ TĨNH MẠCH TOÀN BỘ

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 97.22 KB      Lượt xem: 6      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (6 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Gây mê tĩnh mạch toàn bộ hay gây mê tĩnh mạch toàn phần (Total Intravenous Anesthesia: TIVA) là phương pháp gây mê toàn thân bằng cách dùng phối hợp thuốc mê, thuốc an thần, thuốc ngủ, thuốc giảm đau, thuốc dãn cơ, rất được phổ biến và thuận lợi nhất là trong gây mê - phẫu thuật tim, phẫu thuật thần kinh với việc sử dụng những thuốc gây mê có thời gian tác dụng ngắn và ít gây tác dụng phụ. Mặc dù những thuốc mới có giá đắt hơn, nhưng có nhiều thuận lợi nếu tính về...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
GÂY MÊ TĨNH MẠCH TOÀN BỘ GÂY MÊ TĨNH MẠCH TOÀN BỘGây mê tĩnh mạch toàn bộ hay gây mê tĩnh mạch toàn phần (Total IntravenousAnesthesia: TIVA) là phương pháp gây mê toàn thân b ằng cách dùng phối hợpthuốc mê, thuốc an thần, thuốc ngủ, thuốc giảm đau, thuốc dãn cơ, rất được phổbiến và thuận lợi nhất là trong gây mê - phẫu thuật tim, phẫu thuật thần kinh vớiviệc sử dụng những thuốc gây mê có thời gian tác dụng ngắn và ít gây tác dụngphụ. Mặc dù những thuốc mới có giá đắt hơn, nhưng có nhiều thuận lợi nếu tínhvề khía cạnh kinh tế thì cũng có lợi hơn như rút nội khí quản sớm, giảm thời giannằm viện (Fast-tract), nên sẽ giảm được giá thành.Một phương pháp thường được sử dụng trong gây mê tĩnh mạch toàn phần là:- Propofol 0,5 – 1,5 mg/kg rồi tiếp theo sau 25 – 100mcg/kg/phút.- Remifentanil 0,5 – 01 mcg/kg rồi tiếp 0,5 – 01mcg/g/phút.Phương pháp gây mê tĩnh mạch với nồng độ đích (Target Controlled Infusion:TCI) là phương pháp sử dụng phần mềm trên bộ máy bơm tiêm điện, để định ranồng độ của thuốc gây mê trong huyết tương người bệnh tại thời điểm đó dựa trêndược động, dược lực học của thuốc đó. Với Propofol, bác sĩ sẽ căn cứ vào tìnhtrạng bệnh nhân, tuổi tác, cân nặng và nồng đọ Propofol trong máu mà bác sĩmuốn có. Với phương háp gây mê tĩnh mạch nồng độ đích, nếu kết hợp dụng cụtheo dõi độ mê (Bispectral Index: BIS), sẽ giúp cho người bệnh đạt được độ mêthích hợp, và tránh cho người bệnh phải chịu đựng độ mê không thích hợp như độmê quá nhiều hay quá ít, nhất là bệnh nhân tỉnh dậy trong lúc đang được gây mê.Bởi vì thuốc giảm đau Remifentanil có thời gian tác dụng quá ngắn, khoảng 5 – 7phút nên khi chấm dứt phẫu thuật nên chích tĩnh mạch một lượng Morphine đểngười bệnh được tiếp tục giảm đau sau mổ.Từ thập niên 1990s, khi hệ thống máy DiprifusorTM được đưa vào sử dụng vớithuốc mê Propofol trong khi th ực hiện những thủ thuật về Ngoại thần kinh, ngườita nhận xét hệ thống này có ưu điểm là duy trì được độ mê thích hợp, ổn địnhhuyết động, dễ sử dụng, có thể dự đoán được thời gian bệnh nhan hồi tỉnh. Hiệnnay có nhiều cơ sở sử dụng TCI để kết hợp dùng Propofol và Remifentanil tronggây mê phẫu thuật Ngoại thần kinh như phẫu thuật bóc u não nhỏ ở vùng tháidương đỉnh gần vùng vận động và ngôn ngữ, phẫu thuật thần kinh định vị, cácphẫu thuật cần đo điện sinh lý trong lúc phẫu thuật như đo điện thế gợi vận động,điện thế gợi xúc giác và đặc biệt là trong các điều trị phẫu thuật bệnh Parkinson;người ta dùng phương pháp gây mê “Ngủ - Tỉnh - Ngủ” bằng các dùng TCI để kếthợp Propofol với Remifentanil. Người ta nhận thấ khi dùng nồng độ thuốc rất thấpso với nồng độ dự đoán.Trong hoàn cảnh gây mê hồi sức cấp cứu thì kỹ thuật TCI không thực sự phù hợp,bởi vì sử dụng Propofol tiêm tĩnh mạch trực tiếp thường làm tụt huyết áp và ảnhhưởng xấu tới áp lực tưới máu não. Trong gây mê hồi sức cấp cứu ngoại thần kinhphác đồ sử dụng Thiopenton và Suxamethonium vẫn còn được sử dụng; nếu bệnhnhân có huyết áp không ổn định thì thuốc Etomidate được sử dụng thay thế.Trong tương lai, phương pháp an thần tĩnh mạch với nồng độ đích (Sédationintraveineuse à objectif de concentration: SIVOC) và an thần kiểm soát bởi bệnhnhân (Sédation contrôlée par le patient: SCP): gần đây người ta phát triển kỹ thuậtan thần được kiểm soát bởi bệnh nhân (SCP) dựa trên nguyên tắc gần giống nhưkỹ thuật giảm đau được kiểm soát bởi bệnh nhân (PCA): người gây mê chọn nồngđộ đích lúc khởi đầu là Propofol 01 mcg/ml, sau đó bệnh nhân có thể tăng dầnPropofol theo nấc thang mỗi lần là 0,2 mcg/ml, sau đó bệnh nhân có thể tăng dầnPropofol theo nấc thang mỗi lần là 0,2mcg/ml với một giai đoạn trợ là 2 phút vànồng độ Propofol tối đa đạt đ ược là 3mcg/ml. Việc chia liều thấp được thực hiệnbằng máy tính sau một khoảng thời gian cùng với bậc thang nồng độ. Trong tươnglai, một số phẫu thuật ngoại thần kinh được gây tê tại chỗ kết hợp với an thần kiểmsoát bởi bệnh nhân. Tại hồi sức, người ta sử dụng các phần mềm dược động họcphù hợp với truyền thuốc kéo dài để sử dụng kỹ thuật an thần tĩnh mạch đạt nồngđộ đích.Propofol là thuốc mê tĩnh mạch có mạt trên thị trường từ năm 1986, thuốc này cónhững đặc điểm có lợi cho chuyển hóa não trong gây mê hồi sức ngoại thần kinh;propofol phải được dùng bằng cách truyền liên tục và không nên tiêm trực tiếptĩnh mạch vì nó gây tác dụng bất lợi trên áp lực tưới máu não. TCI là một kỹ thuậtmới dùng để sử dụng thuốc mê tĩnh mạch, đặc biết là đối với Propofol và phươngpháp này khắc phục được các nhược điểm của gay mê tĩnh mạch toàn diện(TIVA), bởi vì nó khó duy trì được độ mê. Cùng với sự phát triển của các kháiniệm mới về dược động học cũng như dược lực học ứng dụng. TCI ngày càngđược sử dụng rộng rãi trong gây mê hồi sức vì phương pháp này tăng độ an toàn,và cho phép dự đoán được thời gian tỉnh.Những tính chất cần thiết lý tưởng của thuốc dùng gây mê tĩnh mạch toàn bộ- Ổn định ...

Tài liệu được xem nhiều: