Từ thời thượng cổ người Việt mới quen mua một bức tranh dân gian giá vài trinh, nay là hai ngàn rưởi, tức bằng nửa bát phở, khó mường tượng ra những giá trị nghệ thuật cao hơn. Khi họa sĩ trong nước bán được bức tranh vài ngàn USD, thì mọi người coi đấy là chuyện đặc biệt và quá khích với thu nhập thông thường. Sự kiện bức tranh Hoa hướng dương và Bác sĩ Gachet của Van Gogh bán đấu giá từ 50 - 80 triệu USD thì không còn ai hiểu ra sao nữa. Rồi...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
GIÁ TRỊ CỦA MỘT BỨC HỌA
GIÁ TRỊ CỦA MỘT BỨC HỌA
VICENT VAN GOGH-Bác sĩ
Gachét-sơn dầu (bức tranh
được bán với giá 50 triệu USD)
Từ thời thượng cổ người Việt mới quen mua một bức tranh dân gian giá vài
trinh, nay là hai ngàn rưởi, tức bằng nửa bát phở, khó mường tượng ra
những giá trị nghệ thuật cao hơn. Khi họa sĩ trong nước bán được bức tranh
vài ngàn USD, thì mọi người coi đấy là chuyện đặc biệt và quá khích với thu
nhập thông thường. Sự kiện bức tranh Hoa hướng dương và Bác sĩ Gachet
của Van Gogh bán đấu giá từ 50 - 80 triệu USD thì không còn ai hiểu ra sao
nữa. Rồi đến bức Cậu bé với chiếc tẩu của Picasso gần đây được bán với giá
hơn 100 triệu USD tiếng cười trừ đã thay cho sự ngờ vực. Nhiều bạn hỏi
không biết bức tranh đẹp thế nào mà giá đắt như vậy. Như thế là theo quan
niệm thông thường bức tranh càng đẹp thì giá càng đắt, vậy mà đó là cái đẹp
rất khó chiêm ngưỡng, gợi ra sự tò mò hơn là niềm đam mê. Năm 1996, ủy
ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh khó khăn lắm mới quyết định mua
bức tranh Vườn xuân Bắc Trung Nam của họa sĩ Nguyễn Gia Trí với giá 600
triệu đồng, tương đương 100 nghìn USD lúc đó. Nhiều ý kiến đã phản đối
rằng trong khi đồng bào đang trầm luân trong lũ lụt, hạn hán, không nên làm
cái việc lãng phí như vậy. May rằng, bức tranh vẫn được mua và đặt tại Bảo
tàng Mỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh. Câu hỏi tại sao tranh của danh họa
lại đắt giá không dễ trả lời. Chắc chắn giá tranh Van Gogh và Picasso luôn
đạt kỷ lục không phải vì hai ông vẽ đẹp hơn các danh họa khác. Sự phát triển
tự nhiên của đời sống văn hóa và thị trường nghệ thuật đã thúc đẩy giá tranh
lên cao đến vậy. Khi đặt nhu cầu ăn ở là quan trọng, không thể hiểu được
hiện tượng đó. Vua chúa chẳng thể hiểu được bọn thi sĩ ngông cuồng. Người
kinh doanh chẳng thể hiểu đám nghệ sĩ theo đuối cái hư danh phù du. Và
dân chúng cũng chẳng thể hiểu được tính tiên lượng và quái dị của nghệ
thuật. Khi Van Gogh đi vẽ ngoài đồng ở Hà Lan, người cùng làng đã chặn
lại mà nói sao ông không đi cày cuốc mà vẽ vời nhăng nhít như vậy. Khi
sống ông cũng chỉ bán được một bức tranh giá 300 quan. Trên thực tế nghệ
thuật vừa là vô giá vừa là vô ích, hoặc chẳng có giá trị nhất định. Thang giá
trị tính bằng tiền, chung quy là hoạt động của giới kinh doanh nghệ thuật,
thấp thì bán cho những trí thức trung lưu, cao thì bán cho cánh tư sản. Và
mua cũng không mường tượng được món hàng đắt giá này sẽ đi đến đâu.
Nhưng quy luật “Người giàu trồng lau ra mía. Người nghèo trồng củ tía ra
củ nâu” làm họ yên tâm. Không chỉ có nghệ thuật mà mọi hoạt động văn hóa
thể thao ở các nước phát triển đều là kinh doanh bậc cao, không ô nhiễm, mà
“nhất bản vạn lợi”.
Việc đánh giá sáng tạo khoa học và nghệ thuật chỉ như các lao động thông
thường dẫn đến sự không hiểu được tại sao các công trình phát minh khoa
học và nghệ thuật lại đắt giá, do đó mà không biết thu lời, không trọng hiền
tài, và chỉ có khả năng lao động giản đơn. Từ việc giặt vải bông chày vồ và
dùng chày khuấy nước, người phương Tây đã nghĩ ra cái máy giặt. Còn nếu
không ở phương Đông vẫn cứ giặt bằng tay và chày vồ. Người Việt đã biết
giặt sạch bằng bong bóng quả bồ hòn, nhưng lại chả tài nào nghĩ ra xà
phòng, ôtô, xe máy, ti vi, tủ lạnh, quạt, bàn là... tóm lại là các tiện nghi công
nghiệp sử dụng năng lượng điện, chúng ta tiếp nhận không từ phương Tây,
mà không cần sáng chế gì cả. Họ thu lời chán chê từ xuất khẩu công nghiệp
đến cho vay tiền, và cao hơn buôn thông tin, tạo ra một khoảng cách giầu
nghèo giữa những nước công nghiệp phát triển và còn lại ở những nước đó
những tích tụ và hoạt động văn hóa lâu đời đã đẩy các sản phẩm văn hóa
nghệ thuật lên một mức cao chưa từng thấy và dường như là độc quyền ở
phương Tây cho dù các giá trị nghệ thuật các dân tộc là không thể so sánh,
cũng đều là phản ánh những đời sống xã hội khác nhau. Việc bán những cầu
thủ bóng đá như Zidance, Ronaldo quá 50 triệu USD đã từng được coi là sự
xỉ nhục những người lao động. Còn việc bán các tấc phẩm hội họa đến hàng
trăm triệu USD phần là kết quả tất yếu của những nền văn hóa tự xưng là
đỉnh cao và chuẩn mực của nhân loại, là sự tích tụ dần dà có chiều sâu của
hoạt động văn hóa, phần là giải tỏa những năng lượng thừa của xã hội tư bản
giàu có, và sự đam mê điên rồ với các siêu sao. Những quy luật đó không thể
và không phổ cập, cho các nền nghệ thuật phương Đông, nhưng có ảnh
hưởng kích thích các thị trường nghệ thuật châu á ở mức độ thấp. Ví dụ
trong thang giá trị và tiền đối với hội họa, những năm 1996 - 1998 ở Pháp,
về thời giá cao nhất là Van Gogh, thấp nhất là Lê Bá Đảng. Và khi thị
trường nghệ thuật Âu Mỹ phát đạt thì thị trường nghệ thuật Việt Nam cũng
dễ thở.
Khi Van Gogh vẽ Cánh đồng sau cơn mưa, đoàn tàu hỏa nhả khói đên trên
cánh đồng sũng nước và xanh ngắt hoa mầu. Cảnh tượng mơ mộng của cái
thời tiền công nghiệp đó là một hình ảnh không bao giờ còn được trông thấy
nữa. ấy thế mà vào thới Van Gngh không ít người còn dị ứng với tầu hỏa và
điện như là một thứ quái vật. Sự l ...