Giá trị tuyệt đối của chữ tín trong kinh doanh
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 123.39 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Tham khảo tài liệu giá trị tuyệt đối của chữ tín trong kinh doanh, kinh doanh - tiếp thị, kế hoạch kinh doanh phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giá trị tuyệt đối của chữ tín trong kinh doanhGiá trị tuyệt đối của chữ tín trongkinh doanhTính cạnh tranh của một doanh nghiệp tùy thuộc vào lòng tincủa khách hàng với sản phẩm hoặc dịch vụ được cung cấpbởi doanh nghiệp đó. Do vậy, để khẳng định tính cạnh tranhcủa mình, doanh nghiệp phải: (1) Ý thức được giá trị tuyệtđối của chữ tín trong kinh doanh và (2) Phải xây dựng đượckhả năng để làm tốt cái gì mình hứa.Tính cạnh tranh được đo lường bởi giá trị thặng dư của sảnphẩm. Nói một cách khác, mức độ cạnh tranh là mức độ lợinhuận của doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh là khả năng làmgiàu được trong kinh tế thị trường. Một gánh bún riêu hay mộtquán cà phê vỉa hè có khách và làm ăn có lãi là có tính cạnhtranh cao hơn một nhà hàng cao cấp ít khách làm ăn không cólãi. Một thương hiệu có uy tín có thể bán sản phẩm giá cao hơnsản phẩm cùng loại của một hãng khác chưa có uy tín bằng. Nhưvậy tính cạnh tranh, hay nói một cách khác là khả năng sinh lợitrong kinh doanh, không nhất thiết phải tùy thuộc vào mặt hàngnào, công nghệ nào hay số vốn mà thực tế là trên độ tin cậy củangười tiêu thụ mặt hàng hoặc dịch vụ đó.Để ý thức được giá trị tuyệt đối của chữ tín trong kinh doanh,doanh nhân cần có tư duy dịch vụ. Nghĩa là phải luôn đặt mìnhvào vị trí của người tiêu thụ và tự đánh giá sản phẩm của mìnhmột cách khách quan rên mặt giá trị tiện và lợi.Nhiều mặt hàng của chúng ta còn thiếu tính cạnh tranh vì mẫumã không bắt mắt, không tiện sử dụng, từ đó không tạo đượclòng tin về nội dung (chất lượng) của mặt hàng đó. Người tiêudùng nhiều lúc phải loay hoay không biết làm sao để mở một hộpdầu cù là, một gói bánh, một chai nước mắm hay ngay cả mộtbao khăn lạnh chúng ta dùng hàng ngày. Một gói bánh đậu phụngsản xuất tại Việt Nam với mẫu mã chuẩn bán được giá gấp đôi ởsiêu thị Mỹ so với cùng bánh đậu phụng dó với mẫu mã sơ sàibán trong một siêu thị Việt Nam cũng tại Mỹ. Muốn làm tốt hơncái bánh đậu phụng để bán được giá cao hơn là chuyện đơn giảnvà không tốn kém bao nhiêu.Để có tính cạnh tranh cao, người tiêu thụ phải được thuyết phụcđể tin rằng người sản xuất luôn luôn chu đáo nghĩ đến nhu cầucủa họ và đã thỏa mãn nhu cầu của họ xứng đáng với cái giá họđã trả.Để xây dựng được khả năng làm được cái gì mình đã hứa,doanh nhân cần chủ động những điều kiện nội tại và biết khaithác triệt để được những điều kiện đó. Doanh nghiệp chỉ cần làmhay trong khả năng sẵn có và có thể có của mình để chủ độngđược giá thành và giảm rủi ro sản xuất. Đó là tận dụng lợi thếtương đối của mình. Nhiều doanh nghiệp biết tận dụng phế liệusẵn có để kinh doanh sản xuất có lãi. Rất nhiều doanh nhân HồngKông trong những năm 1950 và 1960 là những người ít học, ítvốn nhưng họ đã biết tận dụng cái gì họ có để sản xuất những cáiđơn giản nhất mà người khác cần. Họ sản xuất tóc giả cho phụnữ và đã xuất khẩu gần một tỉ USD tóc giả một năm cho toàn thếgiới. Đến khi tóc giả không còn là sản phẩm thời trang nữa thì họchuyển qua sản xuất hoa giả và đồ chơi trẻ em. Hồng Kong làmgiàu từ đó và tập trung vào phát triển dịch vụ thương mại, xuấtnhập khẩu và ngan hàng, nơi mà họ có lợi thế tương đối nhờ vàomạng lưới Hoa Kiều khắp thế giới. Họ không nhờ vào công nghệcao hay sản xuất những hàng phức tạp đòi hỏi vốn đầu tư, kỹthuật cao, nhưng họ lại có được uy tín sản xuất hàng nào ra hàngđó. Vậy là có ưu thế về cạnh tranh.Tương tự như kinh tế doanh nghiệp, tính cạnh tranh của một nềnkinh tế quốc gia không tùy thuộc vào số khoa học gia hay lượngđầu tư vào ngành nghề công nghệ cao, mà tùy thuộc vào việccung cấp được cái gì người khác cần trong khả năng của mìnhcó thể chủ động được. Thụy Sĩ là một trong những nước có thunhập đầu người cao nhất thế giới chỉ nhờ vào khả năng kinhdoanh chữ tín của họ trong dịch vụ ngân hàng. Ai bỏ tiền vàongân hàng Thụy Sĩ cũng tin rằng tiền của mình sẽ không mất vàđược bảo mật tuyệt đối nên họ chấp nhận mức lãi suất thấp nhấtthế giới, tạo cho Thụy Sĩ một thế cạnh tranh tuyệt đối trong ngànhnày.Tài nguyên thiên nhiên cũng không phải là một điều kiện cần.Trong số top ten những nước có chỉ số cạnh tranh cao nhất,ngoài Mỹ và Úc, còn lại là những nước nhỏ ở Bắc Âu và ĐàiLoan, Singapore, những quốc gia và lãnh thổ không nhiều tàinguyên thiên nhiên. Những nơi này ngoài điều kiện có được mộtmôi trường kinh doanh thông thoáng không gây trở ngại chodoanh nghiệp, còn chia sẻ một đặc điểm là tính chu đáo trong vănhóa kinh doanh của họ. Trong kinh doanh tính chu đáo và trungthực tạo được sự tin cẩn. Và đó là một lợi thế cạnh tranh đượckhẳng định. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giá trị tuyệt đối của chữ tín trong kinh doanhGiá trị tuyệt đối của chữ tín trongkinh doanhTính cạnh tranh của một doanh nghiệp tùy thuộc vào lòng tincủa khách hàng với sản phẩm hoặc dịch vụ được cung cấpbởi doanh nghiệp đó. Do vậy, để khẳng định tính cạnh tranhcủa mình, doanh nghiệp phải: (1) Ý thức được giá trị tuyệtđối của chữ tín trong kinh doanh và (2) Phải xây dựng đượckhả năng để làm tốt cái gì mình hứa.Tính cạnh tranh được đo lường bởi giá trị thặng dư của sảnphẩm. Nói một cách khác, mức độ cạnh tranh là mức độ lợinhuận của doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh là khả năng làmgiàu được trong kinh tế thị trường. Một gánh bún riêu hay mộtquán cà phê vỉa hè có khách và làm ăn có lãi là có tính cạnhtranh cao hơn một nhà hàng cao cấp ít khách làm ăn không cólãi. Một thương hiệu có uy tín có thể bán sản phẩm giá cao hơnsản phẩm cùng loại của một hãng khác chưa có uy tín bằng. Nhưvậy tính cạnh tranh, hay nói một cách khác là khả năng sinh lợitrong kinh doanh, không nhất thiết phải tùy thuộc vào mặt hàngnào, công nghệ nào hay số vốn mà thực tế là trên độ tin cậy củangười tiêu thụ mặt hàng hoặc dịch vụ đó.Để ý thức được giá trị tuyệt đối của chữ tín trong kinh doanh,doanh nhân cần có tư duy dịch vụ. Nghĩa là phải luôn đặt mìnhvào vị trí của người tiêu thụ và tự đánh giá sản phẩm của mìnhmột cách khách quan rên mặt giá trị tiện và lợi.Nhiều mặt hàng của chúng ta còn thiếu tính cạnh tranh vì mẫumã không bắt mắt, không tiện sử dụng, từ đó không tạo đượclòng tin về nội dung (chất lượng) của mặt hàng đó. Người tiêudùng nhiều lúc phải loay hoay không biết làm sao để mở một hộpdầu cù là, một gói bánh, một chai nước mắm hay ngay cả mộtbao khăn lạnh chúng ta dùng hàng ngày. Một gói bánh đậu phụngsản xuất tại Việt Nam với mẫu mã chuẩn bán được giá gấp đôi ởsiêu thị Mỹ so với cùng bánh đậu phụng dó với mẫu mã sơ sàibán trong một siêu thị Việt Nam cũng tại Mỹ. Muốn làm tốt hơncái bánh đậu phụng để bán được giá cao hơn là chuyện đơn giảnvà không tốn kém bao nhiêu.Để có tính cạnh tranh cao, người tiêu thụ phải được thuyết phụcđể tin rằng người sản xuất luôn luôn chu đáo nghĩ đến nhu cầucủa họ và đã thỏa mãn nhu cầu của họ xứng đáng với cái giá họđã trả.Để xây dựng được khả năng làm được cái gì mình đã hứa,doanh nhân cần chủ động những điều kiện nội tại và biết khaithác triệt để được những điều kiện đó. Doanh nghiệp chỉ cần làmhay trong khả năng sẵn có và có thể có của mình để chủ độngđược giá thành và giảm rủi ro sản xuất. Đó là tận dụng lợi thếtương đối của mình. Nhiều doanh nghiệp biết tận dụng phế liệusẵn có để kinh doanh sản xuất có lãi. Rất nhiều doanh nhân HồngKông trong những năm 1950 và 1960 là những người ít học, ítvốn nhưng họ đã biết tận dụng cái gì họ có để sản xuất những cáiđơn giản nhất mà người khác cần. Họ sản xuất tóc giả cho phụnữ và đã xuất khẩu gần một tỉ USD tóc giả một năm cho toàn thếgiới. Đến khi tóc giả không còn là sản phẩm thời trang nữa thì họchuyển qua sản xuất hoa giả và đồ chơi trẻ em. Hồng Kong làmgiàu từ đó và tập trung vào phát triển dịch vụ thương mại, xuấtnhập khẩu và ngan hàng, nơi mà họ có lợi thế tương đối nhờ vàomạng lưới Hoa Kiều khắp thế giới. Họ không nhờ vào công nghệcao hay sản xuất những hàng phức tạp đòi hỏi vốn đầu tư, kỹthuật cao, nhưng họ lại có được uy tín sản xuất hàng nào ra hàngđó. Vậy là có ưu thế về cạnh tranh.Tương tự như kinh tế doanh nghiệp, tính cạnh tranh của một nềnkinh tế quốc gia không tùy thuộc vào số khoa học gia hay lượngđầu tư vào ngành nghề công nghệ cao, mà tùy thuộc vào việccung cấp được cái gì người khác cần trong khả năng của mìnhcó thể chủ động được. Thụy Sĩ là một trong những nước có thunhập đầu người cao nhất thế giới chỉ nhờ vào khả năng kinhdoanh chữ tín của họ trong dịch vụ ngân hàng. Ai bỏ tiền vàongân hàng Thụy Sĩ cũng tin rằng tiền của mình sẽ không mất vàđược bảo mật tuyệt đối nên họ chấp nhận mức lãi suất thấp nhấtthế giới, tạo cho Thụy Sĩ một thế cạnh tranh tuyệt đối trong ngànhnày.Tài nguyên thiên nhiên cũng không phải là một điều kiện cần.Trong số top ten những nước có chỉ số cạnh tranh cao nhất,ngoài Mỹ và Úc, còn lại là những nước nhỏ ở Bắc Âu và ĐàiLoan, Singapore, những quốc gia và lãnh thổ không nhiều tàinguyên thiên nhiên. Những nơi này ngoài điều kiện có được mộtmôi trường kinh doanh thông thoáng không gây trở ngại chodoanh nghiệp, còn chia sẻ một đặc điểm là tính chu đáo trong vănhóa kinh doanh của họ. Trong kinh doanh tính chu đáo và trungthực tạo được sự tin cẩn. Và đó là một lợi thế cạnh tranh đượckhẳng định. ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
kĩ năng kinh doanh nghệ thuật kinh doanh bí quyết kinh doanh kĩ năng quản trị kinh doanh chiến lược kinh doanhTài liệu liên quan:
-
Chiến lược marketing trong kinh doanh
24 trang 388 1 0 -
Bí quyết đặt tên cho doanh nghiệp của bạn
6 trang 325 0 0 -
109 trang 270 0 0
-
Tiểu luận: Phân tích chiến lược của Công ty Sữa Vinamilk
25 trang 220 0 0 -
Sau sự sụp đổ: Điều gì thật sự xảy ra đối với các thương hiệu
4 trang 220 0 0 -
Bài thuyết trình nhóm: Giới thiệu cơ cấu tổ chức công ty lữ hành Saigontourist
7 trang 204 0 0 -
Bài giảng Quản trị nguồn nhân lực ( Lê Thị Thảo) - Chương 4 Tuyển dụng nhân sự
40 trang 200 0 0 -
Thực trạng cạnh tranh giữa các công ty may Hà nội phần 7
11 trang 191 0 0 -
Giới thiệu 12 triệu email trong bộ tài liệu digital marketing
3 trang 177 0 0 -
Phần 3: Các công cụ cơ bản trong máy tính và truyền thông
14 trang 173 0 0