Thông tin tài liệu:
Với mục đích của Hội thảo đề ra, trong phạm vi bài viết chúng tôi chỉ đề cập đến cơ sở pháp lý trong việc giải quyết tranh chấp quốc tế về biển theo quy định của pháp luật quốc tế và một số kiến nghị của cá nhân, góp tiếng nói nhằm bảo vệ chủ quyền của về biển đảo của Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giải quyết tranh chấp về biển
Giải quyết tranh chấp về biển: Nhìn từ thực tiễn một số vụ vi
phạm công ước của liên hợp quốc về luật biển năm 1982 trong
vùng biển thuộc chủ quyền của việt nam
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ BIỂN:
NHÌN TỪ THỰC TIỄN MỘT SỐ VỤ VI PHẠM CÔNG ƯỚC
CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN NĂM 1982 TRONG VÙNG BIỂN
THUỘC CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM
Th.S Nguyễn Ngọc Lâm
Trưởng khoa Luật quốc tế
Trường Đại học Luật TP. HCM
Với mục đích của Hội thảo đề ra, trong phạm vi bài viết chúng tôi chỉ đề cập đến
cơ sở pháp lý trong việc giải qu yết tranh chấp quốc tế về biển theo quy định của
pháp luật quốc tế và một số kiến nghị của cá nhân, góp tiếng nói nhằm bảo vệ chủ
quyền của về biển đảo của Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
1. Nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia – cơ sở pháp lý để giải quyết các
tranh chấp quốc tế.
Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là điều thiêng liêng của mỗi dân tộc, lãnh thổ là
biểu hiện của nền độc lập dân tộc và bất khả xâm phạm của mỗi quốc gia. Bảo vệ
biên giới, lãnh thổ chính là bảo vệ chủ quyền quốc gia chống lại mọi hình thức
ngoại xâm. Quyền này đã được pháp luật quốc tế công nhận. Vì vậy, khi giải quyết
bất kỳ vấn đề gì liên quan đến biên giới và lãnh thổ chúng ta phải biết kết hợp các
hình thức và biện pháp đấu tranh thích hợp đối với từng vụ việc phát sinh trên
nguyên tắc tôn trọng luật pháp quốc tế; bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia; giữ
gìn quan hệ hữu nghị với các nước trên nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền, góp
phần gìn giữ hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.
Việc xác định vùng biển theo pháp luật quốc tế bắt nguồn từ nguyên tắc sơ khai,
mang tính cơ bản, đó là “Đất thống trị biển”. Nội hàm của nguyên tắc này thể
hiện, một quốc gia không có bờ biển thì không thể có vùng biển thuộc chủ quyền
của quốc gia đó và cũng từ nguyên tắc này cho chúng ta thấy chỉ khi đáp ứng được
tiêu chí đầu tiên mang tính cơ bản là có bờ biển, thì quốc gia đó mới có thể có
được các vùng biển thuộc chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối và các vùng biển quốc
gia có quyền về chủ quyền theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật
Biển năm 1982 [1] như vùng lãnh hải; vùng tiếp giáp lãnh hải; vùng đặc quyền
kinh tế.[2]
Với thực tế địa lý của Trung Quốc, nhìn vào bản đồ ai cũng có thể thấy được
Trung Quốc không thể có được vùng biển theo cách tự nhận của mình đó là đường
“lưỡi bò”[3] thâu tóm một diện tích gần 80% diện tích của biển Đông, bao trùm
lên các vùng biển thuộc quyền chủ quyền của Việt Nam và các vùng biển của các
quốc gia khác trong toàn bộ khu vực như Indonesia, Malaysia, Brunei,
Philippines…
Từ cơ sở pháp lý này khi liên hệ đến vụ việc tàu hải giám của Trung Quốc có hành
động ngang ngược cắt cáp và cản trở hoạt động của tàu Bình Minh 02 của Tổng
công ty Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí đang hoạt động trên vùng biển thuộc chủ quyền
của Việt Nam là một hành vi vi phạm nghiêm trọng các quy định của Công ước
1982 mà trong đó Trung Quốc cũng là một quốc gia thành viên, phải có nghĩa vụ
tôn trọng các quy định của Công ước mà mình đã cam kết.
Theo các số liệu công bố, vào thời điểm xảy ra vụ việc, tàu Bình Minh 02 đang
hoạt động ở tọa độ 12o48’25” Bắc và 111o26’48” Đông, cách mũi Đại Lãnh (Phú
Yên) 116 hải lý, đây là vùng biển nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế [4] thuộc
quyền chủ quyền của Việt Nam, trong khi đó ở tọa độ n ày, nơi mà tàu Bình Minh
02 của Việt Nam hoạt động cách đảo Hải Nam của Trung Quốc đến 340 hải lý.
Điều 57 của Công ước 1982 quy định thì “Vùng đặc quyền kinh tế không được mở
rộng ra quá 200 hải lý, kể từ đường cơ sở dùng để tính chiếu rộng lãnh hải”. Chiểu
theo quy định của Điều này thì phía Trung Quốc đã tự kẻ chiều rộng lãnh hải của
mình nhiều hơn so với Công ước quy định 140 hải lý. So với quy định và thực tế
xảy ra vụ vi phạm của tàu Hải giám Trung Quốc thì bất luận trong mọi tình huống
và mọi cách giải thích, ngay cả những bộ óc gi àu trí tưởng tượng nhất cũng khó có
thể nghĩ ra được cơ sở pháp lý nào trong pháp luật quốc tế hiện đại về biển mà dựa
vào đó Trung Quốc có thể đưa ra một yêu sách đối với khu vực mà tàu Bình Minh
02 hoạt động sáng ngày 26/5/2011 (Xem hình minh họa số 1).
Căn cứ vào quy định của Công ước 1982, đối chiếu với thực tế xảy ra chúng ta
thấy trong trường hợp này tàu Hải giám Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng:
(i) Các quyền thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với thềm lục
địa và vùng đặc quyền kinh tế được quy định tại Điều 56 của Công ước 1982. Cụ
thể, trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển “có các quyền thuộc chủ
quyền về việc thăm dò, khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên,
sinh vật hoặc không sinh vật của vùng nước trên đáy biển, của đáy biển và lòng
đất dưới đáy biển, cũng như về những hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác
vùng này vì mục đích kinh tế…”
(ii) Trái với tinh thần và lời văn của Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển
Đông được ký kết giữa các nước trong khối ASEAN và Trung Quốc năm 2002 và
nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai nước là giải quyết mọi tranh chấp bằng
biện pháp hòa bình, không có hành động làm phức tạp thêm tình hình.
(iii) Hành vi đi ngược lại với tuyên bố của Trung Quốc là giải quyết các tranh chấp
liên quan bằng biện pháp hòa bình.
2. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp theo Công ước 1982
Như trên đã trình bày, hoạt động của các nước ở các vùng biển khác nhau như
vùng nội thủy, vùng lãnh hải, tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế… có quy
chế pháp lý khác nhau được áp dụng để điều chỉnh và với những hoạt động trên
biển của quốc gia luôn nhằm mục đích gắn với lợi ích của quốc gia đó. Do vậy,
các tranh chấp về biển giữa các quốc gia xảy ra như là một yếu tố “khách quan”.
Để giải quyết những tranh chấp quốc tế nói chung và tranh chấp về biển nói riêng,
tại Điều 2.3 của Hiến chương Liên Hợp Quốc quy định nghĩa vụ chung cho các
quốc gia là phải giải quyết tranh chấp bằng ph ương pháp hòa bình ...