Giao dịch bảo chứng
Số trang: 4
Loại file: pdf
Dung lượng: 125.16 KB
Lượt xem: 3
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Việc mua chứng khoán với khoản tiền trả trước ít hơn tổng giá trị phải bỏ ra ngay một lúc được gọi là mua theo bảo chứng (buying on margin). Thoạt đầu, do "margin" chỉ đơn thuần là cách vay tiền để mua chứng khoán, người ta đã gọi hoạt động này là vay mua. Nhưng về sau, khi bối cảnh margin ngày càng hoàn thiện, với các nghiệp vụ phức tạp và không chỉ liên quan tới tiền, thì cách hiểu và gọi đơn giản quá đã tỏ ta không còn phù hợp. Đặc biệt là trong "short sale"...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giao dịch bảo chứng Giao dịch bảo chứng: Khái niệm và sự cần thiếtViệc mua chứng khoán với khoản tiền trả trước ít hơn tổng giá trị phải bỏ ra ngaymột lúc được gọi là mua theo bảo chứng (buying on margin).Thoạt đầu, do margin chỉ đơn thuần là cách vay tiền để mua chứng khoán, ngườita đã gọi hoạt động này là vay mua. Nhưng về sau, khi bối cảnh margin ngày cànghoàn thiện, với các nghiệp vụ phức tạp và không chỉ liên quan tới tiền, thì cáchhiểu và gọi đơn giản quá đã tỏ ta không còn phù hợp. Đặc biệt là trong short sale(bán trước), một nhánh quan trọng của nghiệp vụ margin, lại có giao dịch cầnđược hiểu là vay bán. Do vậy, gọi là giao dịch bảo chứng sẽ cho cách hiểu kháiquát hơn.Do quy mô về số lượng và giá trị giao dịch trên thị trường sẽ tăng mạnh thông quatài khoản bảo chứng, người ta ví von hoạt động đầu tư được hỗ trợ bằng phươngtiện tiến công này là một nửa sôi động của TTCK. Tại các thị trường phát triển,phương thức đầu tư bảo chứng không chỉ có bảo chứng để mua (vay để mua), màgồm cả bảo chứng để bán (vay để bán). Tài sản vay và cho vay cũng không nhấtthiết chỉ là tiền, mà còn là chứng khoán. Việc vay và cho vay được chế định vàquản lý theo các nghiệp vụ đầu tư tài chính bài bản, vừa chặt chẽ, vừa theo hướngtạo điều kiện khá phức tạp, rủi ro được hạn chế đến mức tối đa… Chứ khôngđơn giản là thủ tục vay nợ thế chấp thông thường giữa chủ nợ và con nợ (như giữangân hàng và NĐT theo Chỉ thị 03 ở ta hồi năm 2007). Tuy vậy, đối với ngườiđầu tư, việc sử dụng tài khoản bảo chứng lại khá đơn giản và tiện lợi.Các mối quan hệ trong bối cảnh margin được xếp đặt hợp lý và có thể chia thànhba đôi chính: giữa NĐT với CTCK, giữa CTCK với ngân hàng và giữa các CTCKvới nhau hoặc với tổ chức tài chính khác (cách vay trực tiếp giữa NĐT với ngânhàng là nghiệp vụ tín dụng thế chấp, chỉ có một đôi). Các đôi quan hệ này gắn kếtđối ứng về quyền lợi và nghĩa vụ với nhau theo nguyên tắc phân công chuyênnghiệp. Rủi ro như vậy được chẻ nhỏ, được ngắt ra từng đoạn nhằm hạn chế sự lâylan hay đổ vỡ dây chuyền. Bởi, ngân hàng tuy giỏi kinh doanh tiền, nhưng khôngthể sâu hơn CTCK về mặt chứng khoán và ngược lại… Hành lang luật lệ, các quychuẩn chuyên ngành, phương pháp tính toán, yêu cầu tác nghiệp đồng bộ trong hệthống… là các yếu tố hạ tầng khác không kém phần quyết định, giúp cho lĩnh vựchoạt động khá chuyên sâu này được vận hành một cách trơn tru và hiệu quả. Hìnhthức bảo chứng sở dĩ thuyết phục và hấp dẫn là do nó có cái móng được kết cấuchặt (theo cách vừa nói) trên cái nền biến động - hay sinh động - của hoạt độngđầu tư tài chính.Hoạt động đầu tư tài chính nói chung là biến động hay rất biến động. Trường hợpđược hỗ trợ bằng nợ vay để gia tăng thương vụ (leverage) thì tình trạng còn phứctạp và nhạy cảm hơn nhiều. Đầu tư bằng đòn cân nợ có đặc điểm tiến công nhưngmạo hiểm, mà nếu thiếu công cụ kiểm soát và kiềm chế thì rất dễ dẫn đến các tháicực xấu. Riêng việc cho vay thế chấp trong lĩnh vực chứng khoán thì do yêu cầuan toàn, ngân hàng khó có thể làm ăn một mình được. Cách vay và cho vaytươi giữa NĐT với ngân hàng chỉ là cách tạm thời để giải quyết nóng một nhucầu vốn chính đáng, chứ thật ra yêu cầu phát triển bền vững cho TTCK cần có cơchế và công cụ thay thế chuyên nghiệp hơn. Sự nhập cuộc và kết hợp đồng bộ giữacác thành tố trong thị trường, đặc biệt là các CTCK, giữa họ với nhau và với ngânhàng, sẽ trở nên cần thiết. Mặt khác, khuôn khổ pháp lý và sự giám quản vĩ mô sẽlà chỗ dựa cho trật tự thị trường, hạn chế đến mức thấp nhất các biến động bất ý.Kinh nghiệm thế giới đã nói lên điều đó.Vào những năm đầu 1930, thị trường Mỹ đã nhận ra vấn đề vay mượn thái quá đểđầu tư chứng khoán (quan hệ trực tiếp giữa NĐT với ngân hàng) là một trongnhững nguyên nhân gây ra biến cố đổ vỡ thị trường năm 1929, kéo theo cuộc đạikhủng hoảng kinh tế sau đó. Chính vì vậy, Quốc hội nước này đã xây dựng vàthông qua Luật Giao dịch chứng khoán 1934 (Securities Exchange Act of 1934) vàgiao cho Ngân hàng Dự trữ Liên bang (FRB - Federal Reserve Board) thẩm quyềnđiều chỉnh việc đầu tư theo hình thức bảo chứng. Từ đó đến nay, hoạt động đầu tưtheo hình thức bảo chứng tại Mỹ nói riêng và thế giới nói chung đã diễn ra mộtcách có trật tự hơn, nương theo các nề nếp có thể kiểm soát được.Tại Việt Nam, vào những giai đoạn thị trường bật lên sôi động, ví dụ năm 2006 và2007, hoạt động vay mua chứng khoán tăng mạnh, nhưng chủ yếu là cầm cốchứng khoán để vay tiền, là quan hệ tín dụng thế chấp trực tiếp giữa ngân hàng vàNĐT, đây không phải hoạt động đầu tư qua tài khoản bảo chứng. Dù hoạt độngvay nợ để đầu tư được xem là nhu cầu bình thường và quan hệ tín dụng thế chấpchứng khoán (giấy tờ có giá) là hợp lệ, nhưng đó là xét trên từng quan hệ riêng lẻ.Xét theo yêu cầu chuyên ngành và trong bối cảnh liên lập, thì cách cầm cố chứngkhoán đơn giản để vay tiền đầu tư nếu diễn ra tập trung và tự phát là k ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giao dịch bảo chứng Giao dịch bảo chứng: Khái niệm và sự cần thiếtViệc mua chứng khoán với khoản tiền trả trước ít hơn tổng giá trị phải bỏ ra ngaymột lúc được gọi là mua theo bảo chứng (buying on margin).Thoạt đầu, do margin chỉ đơn thuần là cách vay tiền để mua chứng khoán, ngườita đã gọi hoạt động này là vay mua. Nhưng về sau, khi bối cảnh margin ngày cànghoàn thiện, với các nghiệp vụ phức tạp và không chỉ liên quan tới tiền, thì cáchhiểu và gọi đơn giản quá đã tỏ ta không còn phù hợp. Đặc biệt là trong short sale(bán trước), một nhánh quan trọng của nghiệp vụ margin, lại có giao dịch cầnđược hiểu là vay bán. Do vậy, gọi là giao dịch bảo chứng sẽ cho cách hiểu kháiquát hơn.Do quy mô về số lượng và giá trị giao dịch trên thị trường sẽ tăng mạnh thông quatài khoản bảo chứng, người ta ví von hoạt động đầu tư được hỗ trợ bằng phươngtiện tiến công này là một nửa sôi động của TTCK. Tại các thị trường phát triển,phương thức đầu tư bảo chứng không chỉ có bảo chứng để mua (vay để mua), màgồm cả bảo chứng để bán (vay để bán). Tài sản vay và cho vay cũng không nhấtthiết chỉ là tiền, mà còn là chứng khoán. Việc vay và cho vay được chế định vàquản lý theo các nghiệp vụ đầu tư tài chính bài bản, vừa chặt chẽ, vừa theo hướngtạo điều kiện khá phức tạp, rủi ro được hạn chế đến mức tối đa… Chứ khôngđơn giản là thủ tục vay nợ thế chấp thông thường giữa chủ nợ và con nợ (như giữangân hàng và NĐT theo Chỉ thị 03 ở ta hồi năm 2007). Tuy vậy, đối với ngườiđầu tư, việc sử dụng tài khoản bảo chứng lại khá đơn giản và tiện lợi.Các mối quan hệ trong bối cảnh margin được xếp đặt hợp lý và có thể chia thànhba đôi chính: giữa NĐT với CTCK, giữa CTCK với ngân hàng và giữa các CTCKvới nhau hoặc với tổ chức tài chính khác (cách vay trực tiếp giữa NĐT với ngânhàng là nghiệp vụ tín dụng thế chấp, chỉ có một đôi). Các đôi quan hệ này gắn kếtđối ứng về quyền lợi và nghĩa vụ với nhau theo nguyên tắc phân công chuyênnghiệp. Rủi ro như vậy được chẻ nhỏ, được ngắt ra từng đoạn nhằm hạn chế sự lâylan hay đổ vỡ dây chuyền. Bởi, ngân hàng tuy giỏi kinh doanh tiền, nhưng khôngthể sâu hơn CTCK về mặt chứng khoán và ngược lại… Hành lang luật lệ, các quychuẩn chuyên ngành, phương pháp tính toán, yêu cầu tác nghiệp đồng bộ trong hệthống… là các yếu tố hạ tầng khác không kém phần quyết định, giúp cho lĩnh vựchoạt động khá chuyên sâu này được vận hành một cách trơn tru và hiệu quả. Hìnhthức bảo chứng sở dĩ thuyết phục và hấp dẫn là do nó có cái móng được kết cấuchặt (theo cách vừa nói) trên cái nền biến động - hay sinh động - của hoạt độngđầu tư tài chính.Hoạt động đầu tư tài chính nói chung là biến động hay rất biến động. Trường hợpđược hỗ trợ bằng nợ vay để gia tăng thương vụ (leverage) thì tình trạng còn phứctạp và nhạy cảm hơn nhiều. Đầu tư bằng đòn cân nợ có đặc điểm tiến công nhưngmạo hiểm, mà nếu thiếu công cụ kiểm soát và kiềm chế thì rất dễ dẫn đến các tháicực xấu. Riêng việc cho vay thế chấp trong lĩnh vực chứng khoán thì do yêu cầuan toàn, ngân hàng khó có thể làm ăn một mình được. Cách vay và cho vaytươi giữa NĐT với ngân hàng chỉ là cách tạm thời để giải quyết nóng một nhucầu vốn chính đáng, chứ thật ra yêu cầu phát triển bền vững cho TTCK cần có cơchế và công cụ thay thế chuyên nghiệp hơn. Sự nhập cuộc và kết hợp đồng bộ giữacác thành tố trong thị trường, đặc biệt là các CTCK, giữa họ với nhau và với ngânhàng, sẽ trở nên cần thiết. Mặt khác, khuôn khổ pháp lý và sự giám quản vĩ mô sẽlà chỗ dựa cho trật tự thị trường, hạn chế đến mức thấp nhất các biến động bất ý.Kinh nghiệm thế giới đã nói lên điều đó.Vào những năm đầu 1930, thị trường Mỹ đã nhận ra vấn đề vay mượn thái quá đểđầu tư chứng khoán (quan hệ trực tiếp giữa NĐT với ngân hàng) là một trongnhững nguyên nhân gây ra biến cố đổ vỡ thị trường năm 1929, kéo theo cuộc đạikhủng hoảng kinh tế sau đó. Chính vì vậy, Quốc hội nước này đã xây dựng vàthông qua Luật Giao dịch chứng khoán 1934 (Securities Exchange Act of 1934) vàgiao cho Ngân hàng Dự trữ Liên bang (FRB - Federal Reserve Board) thẩm quyềnđiều chỉnh việc đầu tư theo hình thức bảo chứng. Từ đó đến nay, hoạt động đầu tưtheo hình thức bảo chứng tại Mỹ nói riêng và thế giới nói chung đã diễn ra mộtcách có trật tự hơn, nương theo các nề nếp có thể kiểm soát được.Tại Việt Nam, vào những giai đoạn thị trường bật lên sôi động, ví dụ năm 2006 và2007, hoạt động vay mua chứng khoán tăng mạnh, nhưng chủ yếu là cầm cốchứng khoán để vay tiền, là quan hệ tín dụng thế chấp trực tiếp giữa ngân hàng vàNĐT, đây không phải hoạt động đầu tư qua tài khoản bảo chứng. Dù hoạt độngvay nợ để đầu tư được xem là nhu cầu bình thường và quan hệ tín dụng thế chấpchứng khoán (giấy tờ có giá) là hợp lệ, nhưng đó là xét trên từng quan hệ riêng lẻ.Xét theo yêu cầu chuyên ngành và trong bối cảnh liên lập, thì cách cầm cố chứngkhoán đơn giản để vay tiền đầu tư nếu diễn ra tập trung và tự phát là k ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
tài chính ngân hàng tài chính doanh nghiệp đầu tư chứng khoán Giao dịch bảo chứngGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Tài chính doanh nghiệp: Phần 2 - TS. Bùi Văn Vần, TS. Vũ Văn Ninh (Đồng chủ biên)
360 trang 766 21 0 -
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến ý định đầu tư chứng khoán của sinh viên tại Tp. Hồ Chí Minh
7 trang 570 12 0 -
2 trang 506 0 0
-
18 trang 461 0 0
-
Giáo trình Tài chính doanh nghiệp: Phần 1 - TS. Bùi Văn Vần, TS. Vũ Văn Ninh (Đồng chủ biên)
262 trang 438 15 0 -
Giáo trình Quản trị tài chính doanh nghiệp: Phần 2 - TS. Nguyễn Thu Thủy
186 trang 421 12 0 -
Chiến lược marketing trong kinh doanh
24 trang 380 1 0 -
Giáo trình Quản trị tài chính doanh nghiệp: Phần 1 - TS. Nguyễn Thu Thủy
206 trang 370 10 0 -
3 trang 302 0 0
-
Các yếu tố tác động tới quyết định đầu tư chứng khoán của giới trẻ Việt Nam
7 trang 298 0 0