Giáo dục đại học Việt Nam đang ở đâu và chính sách phát triển
Số trang: 8
Loại file: pdf
Dung lượng: 751.55 KB
Lượt xem: 10
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Để có được một chiến lược nhằm đổi mới giáo dục đại học (GDĐH), cần phải trả lời được 3 câu hỏi cơ bản sau đây: (1) Chúngta đang ở đâu? (2) Chúng ta muốn cái gì trong tương lai? và (3) Làm thế nào để đi đến đó?
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giáo dục đại học Việt Nam đang ở đâu và chính sách phát triểnGiáo Dục & Phát TriểnNGND. GS.TS. PHẠM PHỤĐể có được một chiếnlược nhằm đổi mớigiáo dục đại học(GDĐH), cần phải trả lời được 3câu hỏi cơ bản sau đây: (1) Chúngta đang ở đâu? (2) Chúng ta muốncái gì trong tương lai? và (3) Làmthế nào để đi đến đó? Tuy nhiên,ngay với câu hỏi thứ nhất, lâu naychúng ta cũng thường chỉ dừng lạiở mức mô tả “thực trạng” mà chưacó so sánh với tình hình của cácnước khác. Nay VN đã vào WTO,GDĐH của VN cũng phải được đặttrên cùng một mặt bằng so sánh vớicác nước trong khu vực cũng nhưtrên thế giới.A. Đại học VN đang ở đâu?Để trả lời được câu hỏi này,chính chúng ta phải tổ chức nghiêncứu rất công phu và chuyên nghiệp,là “chuẩn đoán bệnh chứ khôngphải chỉ là mô tả các triệu chứng”.Còn dưới góc nhìn của thế giới,56cuối năm 2004, UNESCO đã xếphạng VN là 64/127 nước về “GDcho mọi người”, so với TrungQuốc là 54, Thái Lan là 60. Về tỷlệ người biết chữ, tỷ lệ học sinh phổthông trong độ tuổi, các con số củaVN cũng xấp xỉ như ở các nướctương đối phát triển trong vùng.Đây là những con số đáng mừng,nếu lưu ý rằng, nhiều loại thứ hạngcủa VN trên thế giới, trong đó cócả thứ hạng về GDP/đầu người,VN thường được xếp khoảng trêndưới 100.Tuy nhiên, cũng theo UNESCOnăm 2005, “chỉ số đánh giá tổnghợp về chất lượng GD và nguồnnhân lực”, VN chỉ đạt 32/100điểm, thuộc nhóm yếu kém nhất,xếp thứ 11 trong số 12 quốc giachâu Á được so sánh, chỉ đứngtrên Indonesia và kém xa so vớiPhilippines, Thái Lan và Malaysia.Singapore dẫn đầu nhóm quốc giađược khảo sát, đạt 84/100 điểm.Riêng về chất lượng của hệ thốngPHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 9 - Tháng 1/2011GD, VN được 3,25/10 điểm, đứngthứ 10/12 nước, cao nhất là HànQuốc với 8,00 điểm.Xin lưu ý thêm là, theo đánhgiá chung, nước nào có chỉ số tổnghợp nói trên dưới 35 điểm đều cónguy cơ mất sức cạnh tranh trênthị trường toàn cầu. Điều còn nguyhiểm hơn là, các chỉ số này củaVN trong mấy năm qua đều liêntục giảm. Năng lực cạnh tranh tăngtrưởng (GCI) và năng lực cạnhtranh kinh doanh (BCI) năm 2004,theo Diễn đàn kinh tế thế giới(WEF), VN được xếp là 77/103nước, cách nước cuối cùng chỉ có27 bậc và 24 bậc, tụt đến 15 bậc và21 bậc một cách tương ứng, nếu sovới năm 2003. Năng lực công nghệxếp đến thứ 92.Đó là nói về tình hình chungcủa giáo dục VN. Còn riêng vềlĩnh vực GDĐH lại hết sức đadạng. Có lẽ vì vậy nên chưa thấycó những nghiên cứu so sánhhay sắp hạng một cách tổng quátnhư là “GD cho mọi người” màUNESCO đã làm. Còn để đánh giámức độ phát triển, người ta thườngdùng chỉ số tỷ lệ SV trong thanhniên ở độ tuổi để so sánh. Con sốnày ở nhiều nước phát triển, kể cảHàn Quốc, đã là trên “ngưỡng”50%, nghĩa là nền GDĐH đã cótính “phổ cập” của một nền kinhtế tri thức. Với các nước đangphát triển như Singapore, HồngKông - Trung Quốc, Thái Lan,Malaysia, Philippines, Indonesia,…, con số này đã đạt khoảng 2139%, vượt “ngưỡng” 15%, nghĩalà nền GDĐH đã có tính “đại trà”của một nền kinh tế công nghiệp.Giáo Dục & Phát TriểnTỷ lệ SV trong độ tuổi ở VN, sauhơn 20 năm tăng nhanh số lượngSV với nhịp độ khoảng 13%/ năm,hiện nay (2009) cũng chỉ mới đạtkhoảng 17%.Thử so sánh với các nước lánggiềngXét về mức độ cạnh tranh vàchất lượng của nền GDĐH, TháiLan tự xếp mình vào loại trìnhđộ thấp, xếp hạng 47 và 46 trongtổng số 49 nước được xếp hạng(theo Institute of ManagementDevelopment), trong khi đóSingapore được xếp thứ 4 và ĐàiLoan thứ 14 (2003). Tuy vậy, họcũng đã đưa được “cung” trongGDĐH gần bằng “cầu”, đã tuyểnđến 83,1% học sinh tốt nghiệptrung học phổ thông vào ĐH. Tỷ lệSV trong thanh niên ở độ tuổi củahọ là 27,4%.Nền GDĐH của Thái Lancũng đã được đa dạng hoá cả vềsứ mệnh, loại hình và trình độ, đãcó yếu tố cạnh tranh, và nhờ đó đãhình thành được một nền GDĐH“phân tầng”, một cơ cấu hệ thốngGD hợp lý trong xã hội hiện nay.Ở lớp trên cùng là các trường ĐHcông “truyền thống”, hướng vềnghiên cứu chất lượng cao, trongđó có Chulalongkorn được xếp thứ121 trong 200 trường hàng đầu trênthế giới. Ở lớp giữa là các trườngĐH “dạy nghề”. Lớp dưới cùng làcác ĐH mở, vào học dạng ghi danh,chiếm đến 36,9% tổng số SV.Trong khi đó, nền GDĐH VNcòn “độc quyền” (do “cung” chỉkhoảng 35% của “cầu”), nên chưacó cạnh tranh, không có cạnh tranhthì không cần chăm lo đến chấtlượng, rất nhiều tiêu cực cũng đãphát sinh từ đây; sứ mệnh các cơsở ĐH không rõ ràng, ĐH nghiêncứu không ra nghiên cứu, dạy nghềkhông ra dạy nghề, giá trị bằng cấpvẫn thường được nói theo kiểu chơichữ, “nằm trong hệ thống văn bằngquốc gia” (!).Về tài chính trong GDĐH, từ“chi phí đơn vị” cho đến mức họcphí, ở Thái Lan, một mặt đã phảnánh được “tín hiệu của thị trường”,mặt khác đã thể hiện được chínhsách ưu tiên ngành nghề của Nhànước. Thái Lan cũng đã có mộtquỹ học bổng đến 60 triệu USD,quỹ cho SV vay ưu đãi, để trả họcphí và cả một phần chi phí ăn ở lênđến 350 triệu USD, so với ngânsách nh ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giáo dục đại học Việt Nam đang ở đâu và chính sách phát triểnGiáo Dục & Phát TriểnNGND. GS.TS. PHẠM PHỤĐể có được một chiếnlược nhằm đổi mớigiáo dục đại học(GDĐH), cần phải trả lời được 3câu hỏi cơ bản sau đây: (1) Chúngta đang ở đâu? (2) Chúng ta muốncái gì trong tương lai? và (3) Làmthế nào để đi đến đó? Tuy nhiên,ngay với câu hỏi thứ nhất, lâu naychúng ta cũng thường chỉ dừng lạiở mức mô tả “thực trạng” mà chưacó so sánh với tình hình của cácnước khác. Nay VN đã vào WTO,GDĐH của VN cũng phải được đặttrên cùng một mặt bằng so sánh vớicác nước trong khu vực cũng nhưtrên thế giới.A. Đại học VN đang ở đâu?Để trả lời được câu hỏi này,chính chúng ta phải tổ chức nghiêncứu rất công phu và chuyên nghiệp,là “chuẩn đoán bệnh chứ khôngphải chỉ là mô tả các triệu chứng”.Còn dưới góc nhìn của thế giới,56cuối năm 2004, UNESCO đã xếphạng VN là 64/127 nước về “GDcho mọi người”, so với TrungQuốc là 54, Thái Lan là 60. Về tỷlệ người biết chữ, tỷ lệ học sinh phổthông trong độ tuổi, các con số củaVN cũng xấp xỉ như ở các nướctương đối phát triển trong vùng.Đây là những con số đáng mừng,nếu lưu ý rằng, nhiều loại thứ hạngcủa VN trên thế giới, trong đó cócả thứ hạng về GDP/đầu người,VN thường được xếp khoảng trêndưới 100.Tuy nhiên, cũng theo UNESCOnăm 2005, “chỉ số đánh giá tổnghợp về chất lượng GD và nguồnnhân lực”, VN chỉ đạt 32/100điểm, thuộc nhóm yếu kém nhất,xếp thứ 11 trong số 12 quốc giachâu Á được so sánh, chỉ đứngtrên Indonesia và kém xa so vớiPhilippines, Thái Lan và Malaysia.Singapore dẫn đầu nhóm quốc giađược khảo sát, đạt 84/100 điểm.Riêng về chất lượng của hệ thốngPHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 9 - Tháng 1/2011GD, VN được 3,25/10 điểm, đứngthứ 10/12 nước, cao nhất là HànQuốc với 8,00 điểm.Xin lưu ý thêm là, theo đánhgiá chung, nước nào có chỉ số tổnghợp nói trên dưới 35 điểm đều cónguy cơ mất sức cạnh tranh trênthị trường toàn cầu. Điều còn nguyhiểm hơn là, các chỉ số này củaVN trong mấy năm qua đều liêntục giảm. Năng lực cạnh tranh tăngtrưởng (GCI) và năng lực cạnhtranh kinh doanh (BCI) năm 2004,theo Diễn đàn kinh tế thế giới(WEF), VN được xếp là 77/103nước, cách nước cuối cùng chỉ có27 bậc và 24 bậc, tụt đến 15 bậc và21 bậc một cách tương ứng, nếu sovới năm 2003. Năng lực công nghệxếp đến thứ 92.Đó là nói về tình hình chungcủa giáo dục VN. Còn riêng vềlĩnh vực GDĐH lại hết sức đadạng. Có lẽ vì vậy nên chưa thấycó những nghiên cứu so sánhhay sắp hạng một cách tổng quátnhư là “GD cho mọi người” màUNESCO đã làm. Còn để đánh giámức độ phát triển, người ta thườngdùng chỉ số tỷ lệ SV trong thanhniên ở độ tuổi để so sánh. Con sốnày ở nhiều nước phát triển, kể cảHàn Quốc, đã là trên “ngưỡng”50%, nghĩa là nền GDĐH đã cótính “phổ cập” của một nền kinhtế tri thức. Với các nước đangphát triển như Singapore, HồngKông - Trung Quốc, Thái Lan,Malaysia, Philippines, Indonesia,…, con số này đã đạt khoảng 2139%, vượt “ngưỡng” 15%, nghĩalà nền GDĐH đã có tính “đại trà”của một nền kinh tế công nghiệp.Giáo Dục & Phát TriểnTỷ lệ SV trong độ tuổi ở VN, sauhơn 20 năm tăng nhanh số lượngSV với nhịp độ khoảng 13%/ năm,hiện nay (2009) cũng chỉ mới đạtkhoảng 17%.Thử so sánh với các nước lánggiềngXét về mức độ cạnh tranh vàchất lượng của nền GDĐH, TháiLan tự xếp mình vào loại trìnhđộ thấp, xếp hạng 47 và 46 trongtổng số 49 nước được xếp hạng(theo Institute of ManagementDevelopment), trong khi đóSingapore được xếp thứ 4 và ĐàiLoan thứ 14 (2003). Tuy vậy, họcũng đã đưa được “cung” trongGDĐH gần bằng “cầu”, đã tuyểnđến 83,1% học sinh tốt nghiệptrung học phổ thông vào ĐH. Tỷ lệSV trong thanh niên ở độ tuổi củahọ là 27,4%.Nền GDĐH của Thái Lancũng đã được đa dạng hoá cả vềsứ mệnh, loại hình và trình độ, đãcó yếu tố cạnh tranh, và nhờ đó đãhình thành được một nền GDĐH“phân tầng”, một cơ cấu hệ thốngGD hợp lý trong xã hội hiện nay.Ở lớp trên cùng là các trường ĐHcông “truyền thống”, hướng vềnghiên cứu chất lượng cao, trongđó có Chulalongkorn được xếp thứ121 trong 200 trường hàng đầu trênthế giới. Ở lớp giữa là các trườngĐH “dạy nghề”. Lớp dưới cùng làcác ĐH mở, vào học dạng ghi danh,chiếm đến 36,9% tổng số SV.Trong khi đó, nền GDĐH VNcòn “độc quyền” (do “cung” chỉkhoảng 35% của “cầu”), nên chưacó cạnh tranh, không có cạnh tranhthì không cần chăm lo đến chấtlượng, rất nhiều tiêu cực cũng đãphát sinh từ đây; sứ mệnh các cơsở ĐH không rõ ràng, ĐH nghiêncứu không ra nghiên cứu, dạy nghềkhông ra dạy nghề, giá trị bằng cấpvẫn thường được nói theo kiểu chơichữ, “nằm trong hệ thống văn bằngquốc gia” (!).Về tài chính trong GDĐH, từ“chi phí đơn vị” cho đến mức họcphí, ở Thái Lan, một mặt đã phảnánh được “tín hiệu của thị trường”,mặt khác đã thể hiện được chínhsách ưu tiên ngành nghề của Nhànước. Thái Lan cũng đã có mộtquỹ học bổng đến 60 triệu USD,quỹ cho SV vay ưu đãi, để trả họcphí và cả một phần chi phí ăn ở lênđến 350 triệu USD, so với ngânsách nh ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Giáo dục đại học Việt Nam Giáo dục đại học Đại học Việt Nam Chính sách phát triên giáo dục Hệ thống giáo dụcGợi ý tài liệu liên quan:
-
10 trang 220 1 0
-
171 trang 214 0 0
-
Chuyển đổi số trong giáo dục đại học – Tác động và giải pháp
7 trang 212 0 0 -
27 trang 205 0 0
-
17 trang 170 0 0
-
Sử dụng Chat GPT làm công cụ hỗ trợ trong việc dạy và học ngành truyền thông
6 trang 169 1 0 -
Giải pháp để phát triển chuyển đổi số trong giáo dục đại học tại Việt Nam hiện nay
10 trang 165 0 0 -
Tìm hiểu chương trình đào tạo ngành Điện tử - Viễn thông hệ đại học: Phần 2
174 trang 162 0 0 -
200 trang 155 0 0
-
7 trang 154 0 0