Danh mục

GIÁO TRÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC - TS. NGUYỄN ĐỨC BÁCH - 5

Số trang: 23      Loại file: pdf      Dung lượng: 568.01 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Lý luận và thực tiễn chứng minh rằng, không xây dựng và phát triển nền dân chủ, hệ thống chính trị, trong đó có nhà nước xã hội chủ nghĩa thì không thể thực hiện quyền lực, quyền dân chủ, quyền làm chủ và mọi lợi ích của nhân dân lao động trên thực tế các lĩnh vực của đời sống xã hội trong xã hội xã hội chủ nghĩa.I. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa1. Quan niệm về dân chủa) Khái lược lịch sử của vấn đề dân chủTừ trước công nguyên, cách đây hàng ngàn năm, con...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
GIÁO TRÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC - TS. NGUYỄN ĐỨC BÁCH - 5Chương VIINền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nướcxã hội chủ nghĩa Lý luận và thực tiễn chứng minh rằng, không xây dựng và phát triểnnền dân chủ, hệ thống chính trị, trong đó có nhà nước xã hội chủ nghĩa thìkhông thể thực hiện quyền lực, quyền dân chủ, quyền làm chủ và mọi lợiích của nhân dân lao động trên thực tế các lĩnh vực của đời sống xã hộitrong xã hội xã hội chủ nghĩa.I. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa 1. Quan niệm về dân chủ a) Khái lược lịch sử của vấn đề dân chủ Từ trước công nguyên, cách đây hàng ngàn năm, con người đã biếthợp lực với nhau để sản xuất, để chống thiên tai, thú dữ và đã tự tổ chức ranhững hoạt động chung mang tính xã hội, trong đó có việc cử ra nhữngngười đứng đầu các cộng đồng người để thực thi những quy định chung vàphế bỏ những người đó nếu họ không thực hiện những quy định chung theoý nguyện, lợi ích chung của cộng đồng. Từ thời Hy Lạp cổ đại, khi có ngônngữ, chữ viết, con người đã biết diễn đạt nội dung dân chủ: trong xã hộinguyên thuỷ, việc “cử ra và phế bỏ người đứng đầu” là do quyền và sức lựccủa dân. Khi xã hội có chế độ tư hữu, có giai cấp – chế độ chiếm hữu nô lệ rađời, giai cấp chủ nô đã lập ra nhà nước, lấy tên là nhà nước dân chủ (ởAten, Hy Lạp cổ đại, từ thế kỷ thứ VIII đến thứ VI trước công nguyên) –tức nhà nước dân chủ chủ nô thống trị đại đa số người lao động là giai cấpnô lệ. Khi đó nhà nước chủ nô mới chính thức sử dụng danh từ “dân chủ”,tiếng Hy Lạp cổ gọi là “demos” (đề mô) là “dân” và “kratos” (cratô) là“quyền lực”. Có nghĩa là nhà nước dân chủ chủ nô có “quyền lực của dân”.Nhưng “dân” lúc này là dân theo quy định của luật pháp do giai cấp chủ nôquy định gồm giai cấp chủ nô, tăng lữ, thương gia, một số trí thức và ngườitự do, còn đại đa số nhân dân trở thành nô lệ thì không được coi là dân. Vềthực chất, đây là giai cấp tư hữu, áp bức bóc lột đầu tiên lập ra nhà nướcđã dùng pháp luật và nhà nước của nó lạm dụng khái niệm dân chủ đểchiếm mất quyền lực thực sự của nhân dân lao động. Sau hàng ngàn năm 92nay, các giai cấp tư hữu, áp bức bóc lột thống trị xã hội (như phong kiến, tưsản) vẫn là những giai cấp chiếm mất quyền lực của nhân dân lao động.Trong chế độ dân chủ tư sản, dù chế độ này có nhiều thành tựu to lớn (chủyếu là do nhân dân lao động tạo ra...), dù chế độ đó có mang tên chế độ dânchủ, nhà nước dân chủ, nhưng về thực chất vẫn không phải là nhà nướcthực hiện quyền lực thực sự của nhân dân, mà chỉ là nhà nước của giai cấptư sản. Chỉ đến khi Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga (1917)thắng lợi, mới bắt đầu một thời đại mới, khi đó nhân dân lao động đã giànhlại chính quyền, tư liệu sản xuất... giành lại quyền lực thực sự của dân -tức là dân chủ thực sự và lập ra Nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa, thiếtlập nền dân chủ xã hội chủ nghĩa để thực hiện quyền lực của nhân dân. Tóm lại, nhân loại từ lâu đời đã có nhu cầu và bước đầu thực hiện dânchủ và có quan niệm về dân chủ, đó là việc thực thi quyền lực của dân. (Đâylà một khái niệm lịch sử, dân là những ai, còn do bản chất của chế độ xã hộiquy định, nhất là từ khi xã hội phân chia thành giai cấp, thì dân còn do bảnchất giai cấp thống trị xã hội quy định cụ thể trong từng xã hội nhất định). b) Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về dân chủ Thứ nhất, chủ nghĩa Mác-Lênin kế thừa những nhân tố hợp lý tronghoạt động thực tiễn và nhận thức của nhân loại về dân chủ, đặc biệt là việctán thành cho rằng: dân chủ là một nhu cầu khách quan của nhân dân laođộng; dân chủ là quyền lực của nhân dân (hay dân chủ là quyền lực thuộcvề nhân dân). Thứ hai, khi xã hội có giai cấp và nhà nước – tức là một chế độ dânchủ thể hiện chủ yếu qua nhà nước thì khi đó không có “dân chủ chungchung, phi giai cấp, siêu giai cấp”, “dân chủ thuần tuý”. Trái lại, mỗi chếđộ dân chủ gắn với nhà nước đều mang bản chất giai cấp thống trị xã hội.Lịch sử nhân loại đã chứng minh rõ có các kiểu dân chủ: chế độ dân chủchủ nô, chế độ dân chủ tư sản, chế độ dân chủ vô sản (hay dân chủ xã hộichủ nghĩa). Riêng chế độ phong kiến là chế độ quân chủ, (rồi “quân chủ lậphiến”) không phải là chế độ dân chủ, nhưng những nhu cầu dân chủ, nhữngbiểu hiện dân chủ trong nhân dân, trong xã hội, thậm chí ngay cả trong mộtsố triều đình phong kiến... của xã hội phong kiến vẫn có. Do đó, từ khi có chế độ dân chủ thì dân chủ luôn luôn với tư cách mộtphạm trù lịch sử, phạm trù chính trị. Thứ ba, từ khi có nhà nước dân chủ, thì dân chủ còn với ý nghĩa làmột hình thức nhà nước, trong đó có chế độ bầu cử, bãi miễn các thànhviên nhà nước, có quản lý xã hội theo pháp luật nhà nước và thừa nhận ở 93nhà nước đó “quyền lực thuộc về nhân dân” (còn dân là những ai thì do bảnchất giai cấp thống trị xã hội quy định), gắn liền ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: