Danh mục

Giáo trình đất trồng trọt phần 2

Số trang: 21      Loại file: pdf      Dung lượng: 553.55 KB      Lượt xem: 25      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Chương 2 CHẤT VÔ CƠ, HỮU CƠ VÀ MÙN TRONG ĐẤT 2.1. THÀNH PHẦN HOÁ HỌC ĐẤT. Đến nay, người ta đã tìm thấy trong đất trên 45 nguyên tố hoá học nằm trong các hợp chất vô cơ, hữu cơ và vô cơ - hữu cơ
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Giáo trình đất trồng trọt phần 2 Chương 2 CHẤT VÔ CƠ, HỮU CƠ VÀ MÙN TRONG ĐẤT 2.1. THÀNH PHẦN HOÁ HỌC ĐẤT Đến nay, người ta đã tìm thấy trong đất trên 45 nguyên tố hoá học nằm trong các hợp chất vô cơ, hữu cơ và vô cơ - hữu cơ. Vỏ trái đất cũng như trong đất có 4 nguyên tố chiếm tỷ lệ lớn nhất là O, Si, Fe,Al. Hai nguyên tố là N và C ở trong đất và vỏ trái đất chênh lệch nhau khá nhiều (Bảng 2.1). Bảng 2.l: Hàm lượng một số nguyên tố hoá học trong đất và vỏ trái đất (%) Các nguyên tố dinh dưỡng cần thiết cho sự sinh trưởng của thực vật thượng đẳng, ngoài C, H và O có nguồn gốc từ không khí và nước, sổ còn lại bao gồm các nguyên tố đa lượng như N, P, K, Ca, Mg, S . . . và các nguyên tố vi lượng như Fe, Mn, B, Zn, Mo... Những nguyên tố này đều do đất cung cấp, cho nên gọi là các chất dinh dưỡng trong đất Ngoài ra trong đất còn chứa các chất phóng xạ và các chất độc có nguồn gốc từ các chất vô cơ. 2.2. THÀNH PHẦN VÔ CƠ VÀ CHẤT ĐỘC 2.2.1. Các nguyên tố trung và đa lượng chính trong đất Các nguyên tốđa lượng là các nguyên tố có hàm lượng trong đất lớn (>0,001 %). Bao gồm các nguyên tố như: Si, Al, Ca, Mg, P, S,... Tuy nhiên không phải tất cả các nguyên tốđa lượng trong đất là nguyên tố dinh dưỡng đa lượng của cây. Sau đây là mô tả một số nguyên tốđa lượng quan trọng trong đất. Silic (Si): Nguyên tố Si chiếm thứ hai về tỷ lệ sau oxy, Si đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành các hợp chất vô cơ của vỏ trái đất. Dạng Si phổ biến nhất trong đất là SiO2, Những khoáng vật nhóm Silicat và Alumin Silicat có công thức chung là xSiO.yH2O như axit octosilisic H4SiO4 và axit metasilisic H2SiO3: Opan mất hết nước sẽ dần dần kết tinh thành SiO2 tích luỹ lại trong đất, đó là thạch anh thứ sinh. Tỷ lệ SiO2 trong đất khoảng 50-70%. Ở vùng khí hậu nóng ẩm, tốc độ phân giải chất hữu cơ và khoáng vật rất nhanh nên sự rửa trôi silic lớn. Nhôm (Al): Nhôm có trong thành phần của Alumin Silicat. Khi phong hoá đá mẹ, nhôm được giải phóng ra dạng Al(OH)3 là keo vô định hình, cũng có thể kết tinh: 2Al2O3.3H2O 2Al2O3.3H2O là khoáng vật điển hình tích luỹở vùng đất đồi núi vùng nhiệt đới ẩm nhưở Việt Nam. Tỷ lệ Al2O3 trong đất chiếm khoáng 10 - 20%, phụ thuộc thành phần khoáng vật của đá mẹ và các yếu tố khác như khí hậu và địa hình. 2- Nhôm trong đất có thể kết hợp với Cl, Br, T, SO4 tạo thành các hợp chất dễ thuỷ phân làm cho môi trường thêm chua: Sắt (Fe) : Nguồn gốc sắt trong đất từ các khoáng vật Hêmatit, Manhêtit, Ôgit, micađen, Hoocnơblen, limonit, Pyrit. . . . Khi phong hoá các khoáng vật ấy thì sắt được giải phóng ra dạng hydroxy (Fe2O3 nH2O). Sắt trong đất có thểở dạng hợp chất hoá trị 2 hoặc 3 . Các muối sắt hoá trị 2 dễ tan trong nước và một phần nhỏ thuỷ phân làm cho đất chua. Các muối sắt hoá trị 3 khó tan trong nước như FePO4. Tuy nhiên, trong đất lúa nước FePO4 có thể bị khử oxy tạo thành Fe3(PO4)2 dễ tan, từđó có thể cung cấp được lân dễ tiêu cho cây lúa hút. Sắt là một trong những nguyên tố cần cho thực vật. Thiếu sát cây xanh sẽ không tạo được chất diệp lục. Nhờ có sắt mà các loại đất đồi núi ở nước ta có kết cấu tốt hơn, đất tơi xốp và có màu nâu hoặc vàng. Canxi (Ca) và Magiê (Mg) Ca và Mg có trong các khoáng vật như: Oagit amphibon, anoctit, canxit, đolômit...khi phong hoá các khoáng vật trên thì Ca và Mg được giải phóng ra dạng Ca(HCO3)2, MgHCO3)2, CaCO3,MgCO3. Những muối này kết hợp với một số chất trong đất tạo nên thành phần muối clorua, sulfat, phôtphat... Theo Nguyễn Tử Si m và cộng sự (2000) trừ những đất cacbonat, các loại đất Việt Nam có thành phần canxi không quá 1%. Đất chua có tỷ lệ CaoO thấp < 0,5%. Nghèo Ca hơn cả là đất bạc màu (0,04%) và giàu nhất là đất phù sa sông Hồng (0,82%). Nhìn chung độ bão hoà kiềm thấp đòi hỏi phải bón vôi và các biện pháp bổ sung kiềm. Đất trung tính kiềm yếu: macgalít, đất mùn cacbonat thung lũng đá vôi, phù sa ++ ++ sông Hồng, đất mặn có Ca và Mg có tác dụng keo tụ làm gắn kết hạt đất tạo cấu trúc đoàn lạp. ++ ++ Ca và Mg trao đổi ở đất đồi núi thấp hơn đất đồng bằng và Ca xấp xỉ bằng Mg. Đất còn rừng Ca, Mg tới 5-6 lđl/100g đất, xói mòn chỉ còn 1-2 lđl/100g đất. Đất phù sa trung tính thì Ca cao hơn phù sa chua. Gần biển thì Mg tăng lên và Mg > Ca. ++ ++ + + Đại bộ phận kiềm hấp thu là Ca và Mg chiếm 3-8 lđl, trong khi Na và Ka không quá 0,2 lđl (cao nhất là 3 - 6% tổng số cation kiềm trao đổi). Phân tích của mạng lưới FADINAP phát hiện rằng trong 122 mẫu phân tích ở Việt Nam có đến 72% thiếu Ca và 48% thiếu Mg. Natri(Na): Na có trong các khoáng vật mica, alít, kaolinit. Khi khoáng hoá các khoáng vật clorua, sunphát, phối phát. dễ tan trong nước . Nếu thuỷ phân sẽ tạo thành NaOH làm cho đất có tính kiềm mạnh (đất Solonet pH từ 9 - 10). Na còn tồn tại ở dạng hấp phụ trên bề mặt keo đất. Vùng ôn đới khô, lạnh cường độ phong hoá yếu hàm lượng Na2O có thể tới 2 - 2,5%, còn đối với vùng nhiệt đới ẩm hàm lượng này thấp hơn. Theo Fritland đất feralít trên đá bazan Phủ Quỳ chỉ có 0,09 - 0,16% Na2O. Đất mùn trên núi Hoàng Liên Sơn có 2,60 - 3,35% K2O và 0,21 - 0,29 Na2O. Lưu huỳnh (S): Hàm lượng lưu huỳnh tổng số trong đất khoảng 0,01 - 0,20%. Hàm lượng lưu huỳnh vùng mưa nhiều ít hơn so với vùng khô hạn. Vùng gần thành phố hoặc khu công nghiệp lượng lưu huỳnh cao hơn so vùng rừng núi. Lượng lưu huỳnh mà cây cần và hàm lượng lưu huỳnh trong đất cũng tương tự như lân, nhưng hiện tượng thiếu lưu huỳnh ít gặp hơn thiếu lân do 2 nguyên nhân chính: Khả năng giữ chặt lưu huỳnh trong đất yếu hơn giữ chặt lân do đó độ dễ tiêu của lưu huỳnh lớn hơn lân. Nhờ bón phân hóa học ...

Tài liệu được xem nhiều: